Thứ bảy 20/04/2024 08:50

Tốc độ giảm suy dinh dưỡng thấp còi đang chậm lại

Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên
Tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi đang giảm dần, tuy nhiên tốc độ đang chậm lại. Kết quả Tổng Điều tra dinh dưỡng năm 2019-2020 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở vùng miền núi là 38% vẫn còn ở mức rất cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng.
Tốc độ giảm suy dinh dưỡng thấp còi đang chậm lại
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ học đường vẫn còn ở mức 14,8% (ảnh minh hoạ)

Theo thống kê của Bộ Y tế, tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi đang giảm dần. Từ năm 2010 đến năm 2020 giảm từ 29,3% xuống 19,6%. Với mức giảm này, tình trạng SDD thấp còi tại Việt Nam chuyển từ mức cao sang mức trung bình (theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới) và trên đà đạt được Mục tiêu dinh dưỡng toàn cầu năm 2025 về giảm suy dinh dưỡng thấp còi.

Tuy nhiên, tốc độ giảm suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi hằng năm đang chậm lại, ở mức dưới 1%/năm kể từ năm 2015. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ học đường (5-19 tuổi) vẫn còn ở mức 14,8%.

Kết quả Tổng Điều tra dinh dưỡng năm 2019-2020 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở vùng miền núi là 38% vẫn còn ở mức rất cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Trên toàn quốc vẫn còn 7 tỉnh có tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trên 30% thuộc mức rất cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo phân loại của WHO năm 2018.

Cũng theo Bộ Y tế, tỷ lệ thừa cân/béo phì (liên quan chặt chẽ đến chế độ ăn và lối sống) đang gia tăng nhanh chóng ở mọi lứa tuổi cả ở thành thị và nông thôn. Thừa cân/béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7,4% (9,8% ở thành thị; 5,3% ở nông thôn) và rất cao ở mức 19% với trẻ em lứa tuổi học đường, so với tỷ lệ tương ứng năm 2010 là 5,6% và 8,5%.

Kèm theo đó là hệ lụy gia tăng các rối loạn chuyển hóa dinh dưỡng và mắc các bệnh không lây nhiễm ở người trưởng thành. Tỷ lệ người trưởng thành 2 thừa cân/béo phì là 15,6% theo điều tra STEPS (Điều tra Quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm) năm 2015 và tiếp tục gia tăng. Cũng theo điều tra này, tỷ lệ người trưởng thành có tăng huyết áp là 18,9%, tỷ lệ người trưởng thành mắc đái tháo đường là 4,1%, tỷ lệ người trưởng thành có rối loạn mỡ máu là 30,2%.

Ngoài ra, tình trạng thiếu Vitamin A, thiếu máu, thiếu sắt và thiếu kẽm vẫn là các vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Hiện nay, tỷ lệ thiếu Vitamin A, thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ và trẻ dưới 5 tuổi đã có nhiều cải thiện nhưng kết quả vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra.

Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng đến năm 2020, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam là 19,6%. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai và không có thai tương ứng 25,6% và 16,2%. Tỷ lệ thiếu Vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới 5 tuổi là 9,5%. Tỷ lệ vitamin A trong sữa mẹ thấp là 18,3%. Tỷ lệ thiếu kẽm đặc biệt rất cao ở trẻ dưới 5 tuổi là 58% năm 2020; phụ nữ có thai là 63,5%, xếp ở mức nặng về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng.

Tất cả các tỷ lệ này đều chưa đạt được mục tiêu đặt ra về cải thiện tình trạng vi chất bà mẹ và trẻ em của Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và Kế hoạch hành động quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2017-2020.

Nhìn chung, thực hiện Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 Việt Nam đã cơ bản đạt được các mục tiêu về giảm tình trạng thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ, trẻ em: Giảm tỷ lệ SDD nhẹ cân, SDD thấp còi, tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ; cơ bản khống chế tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em dưới 5 tuổi; cải thiện chiều cao trung bình của trẻ em và chiều cao đạt được của thanh niên: cải thiện các chỉ số thực hành về nuôi dưỡng trẻ nhỏ.

Có sự khác biệt giữa các chỉ tiêu đạt được theo vùng miền, tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua không có mục tiêu cụ thể nào được đặt ra riêng cho khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng vẫn còn ở mức cao.

Bên cạnh đó, Việt Nam chưa đạt được các chỉ tiêu liên quan đến cải thiện tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng, khống chế thừa cân béo phì ở người trưởng thành và một số chỉ tiêu liên quan đến nâng cao năng lực thực hiện Chiến lược.

Tốc độ giảm suy dinh dưỡng thấp còi đang chậm lại
Khi cải thiện được tình trạng suy dinh dưỡng cấp tính sẽ giảm được tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (ảnh UNICEF)

Mới đây, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) đã công bố bằng chứng toàn cầu về mức độ gia tăng của tình trạng SDD ở trẻ em. Tất cả các dạng bệnh này đều phổ biến ở Việt Nam. Theo số liệu của giám sát dinh dưỡng thường niên được thực hiện vào năm 2019, ước tính có khoảng 230.000 trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD cấp tính nặng (SAM).

SDD cấp tính, được định nghĩa là nhẹ cân so với chiều cao, là loại suy dinh dưỡng dễ nhận thấy và gây tử vong cao nhất. SDD cấp tính nặng, nghĩa là trẻ quá gầy so với chiều cao dẫn đến hệ miễn dịch suy yếu, là dạng bệnh lý cấp tính, dễ nhận thấy và đe dọa tính mạng nhất.

Do mối liên hệ chặt chẽ giữa SDD cấp tính nặng, SDD thấp còi và tử vong, nên các can thiệp nhằm phòng ngừa và điều trị SDD cấp tính nặng sẽ góp phần giảm cả tỷ lệ tử vong và SDD thấp còi ở trẻ em.

Bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF cho biết, Việt Nam ưu tiên các chính sách dinh dưỡng và đã ban hành các Nghị quyết và các chỉ thị nhằm giảm tỷ lệ trẻ SDD thấp còi và tăng cường công tác dinh dưỡng. Phòng và điều trị SDD cấp tính nặng là một trong những mục tiêu chính của Chiến lược dinh dưỡng quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, và các Chương trình mục tiêu Quốc gia.

Việt Nam đã thiết lập một môi trường thuận lợi cho việc phòng ngừa và điều trị SDD cấp tính nặng, với các cam kết chính trị rõ ràng. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có chính sách cũng như nguồn tài chính nào được xác định từ ngân sách trung ương hoặc địa phương cho các can thiệp quản lý lồng ghép SDD cấp tính và hậu quả có tới 90% các trẻ bị SDD cấp tính nặng không được điều trị.

"Bây giờ là thời điểm thích hợp để đẩy mạnh những nỗ lực hiện có bằng cách đưa việc khám và điều trị trẻ em SDD cấp tính nặng vào Luật khám chữa bệnh sửa đổi", bà Rana Flowers nói.

Từ những tồn tại trong thực hiện Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020, mới đây, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2025.

Có 5 mục tiêu đặt ra là: Thực hiện chế độ ăn đa dạng, hợp lý và an ninh thực phẩm cho mọi lứa tuổi, mọi đối tượng theo vòng đời, đặc biệt là nhóm đối tượng có nguy cơ cao, người bệnh;

Cải thiện tình trạng dinh dưỡng bà mẹ, trẻ em và thanh thiếu niên, chú trọng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực miền núi, huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn;

Kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì, dự phòng các bệnh mạn tính không lây, các yếu tố nguy cơ có liên quan ở trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành;

Cải thiện tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em, thanh thiếu niên và phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, chú trọng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực miền núi, huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn;

Tăng cường nguồn lực thực hiện hiệu quả Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng và nâng cao khả năng ứng phó dinh dưỡng trong tình huống khẩn cấp.

Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi tại Việt Nam vẫn ở mức cao
Trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi do đâu?
Thấp còi gây thiệt hại thế nào?
Cộng đồng đối mặt với gánh nặng kép về suy dinh dưỡng
Được chăm sóc kỹ nhưng trẻ vẫn… suy dinh dưỡng!
Chăm sóc 1.000 ngày đầu đời phòng chống suy dinh dưỡng bà mẹ, trẻ em
Vân Hà
Pháp luật và Xã hội

Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại

Có thể bạn quan tâm

Tin mới hơn
Tin đã đăng
Xem thêm»

Mời bạn quét mã QR để theo dõi Pháp luật và Xã hội trên nền tảng Zalo

Mời bạn quét mã QR để theo dõi phapluatxahoi.kinhtedothi.vn
X
Phiên bản di động