Cứu thị trường trái phiếu bất động sản bằng cách nào?
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênCác chuyên gia đầu ngành tham dự hội thảo |
Trong khuôn khổ hội thảo, các chuyên gia đã cùng nhau thảo luận, cung cấp thông tin khách quan nhằm giúp nhà đầu tư nhận diện đúng về thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) hiện nay. Qua đó giúp ổn định tâm lý nhà đầu tư và đóng góp những giải pháp thiết thực trong quá trình tháo gỡ những khúc mắc mà thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang đối mặt.
Phát biểu tại hội thảo, Tiến sĩ Đinh Thế Hiển cho biết, quy mô thị trường TPDN năm 2020 tương đương 15,1% GDP và 10,3% dư nợ tín dụng. Điều này cho thấy kênh huy động vốn qua trái phiếu, một trong các cấu phần của thị trường vốn cùng với kênh tín dụng và kênh cổ phiếu đã đóng vai trò quan trọng trong việc khai thông nguồn vốn cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam.
Mặc dù giá trị phát TPDN Việt Nam đã tăng mạnh trong giai đoạn 2018 - 2021, tuy nhiên thị trường TPDN Việt Nam vẫn được xem là giai đoạn mới phát triển. Phương thức phát hành chủ yếu là phát hành riêng lẻ với nhà đầu tư chủ yếu vẫn là các ngân hàng.
Ngay từ tháng 3/2022, thị trường TPDN chậm lại nhằm chờ đợi Nghị định sửa đổi 153/NĐ-CP/2020, với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư cũng như nâng cao chất lượng của thị trường vốn. Trong bối cảnh đó, tổng giá trị phát hành TPDN trong 9 tháng năm 2022 giảm mạnh 43,5% so với cùng kỳ xuống còn 248.603 tỷ đồng. Theo ông Hiển, TPDN Việt Nam năm 2022 tập trung vào Ngân hàng và công ty BĐS. Do đó, nếu cần “giải cứu” thị trường TPDN hiện nay thì cũng đồng nghĩa với việc “cứu” trái phiếu của các doanh nghiệp BĐS là chủ yếu.
Trong 9 tháng đầu năm 2022, tổng giá trị phát hành TPDN giảm mạnh 43,5% so với cùng kỳ, xuống còn 248.603 tỷ đồng. Trong đó, tài chính - ngân hàng là nhóm ngành dẫn đầu về giá trị phát hành trong 9 tháng đầu năm 2022, chiếm 58% tổng giá trị (giảm hơn 15% so với cùng kỳ). Nhóm ngành bất động sản chiếm 21,5% tổng GTPH (giảm mạnh 67%). Như vậy, Nếu không tính NHTM (thuộc về định chế tài chính), thì TPDN giai đoạn 2020-2022 chủ yếu là trái phiếu công ty bất động sản.
Theo ông Hiển, ngành BĐS và xây dựng là hai ngành có tỷ lệ thâm dụng vốn lớn nhất hiện nay. Tỉ lệ nợ/tổng vốn và tổng vốn/doanh thu của hai ngành này đang ở mức 73% và gần 750%. Con số này cao gấp nhiều lần so với tỷ lệ của ngành thâm dụng vốn cao thứ hai là thương mại dịch vụ (lần lượt là 51% và 47%).
Vấn đề đặt ra hiện nay là, có nên cứu trái phiếu bất động sản? Vì ở Việt Nam, các ngân hàng gần như không thể phá sản. Và nếu cần giải cứu, thì cứu bằng cách nào?
Liên quan đến vấn đề này, ông Mã Thanh Danh - Chủ tịch CTCP Tư vấn Quốc tế (CIB) đề xuất 3 nhóm giải pháp. Theo ông Danh, giải pháp trước hết vẫn phải tính toán khả năng từ nội tại chính doanh nghiệp.
Cụ thể, doanh nghiệp nên liệt kê xem tài sản còn lại những gì. Đối với doanh nghiệp đang kinh doanh tốt nhưng trái chủ yêu cầu mua lại thì có thể dùng nguồn tiền mặt để mua lại, giúp giải tỏa bớt áp lực. Nếu không đủ tiền, doanh nghiệp có thể đi vay thêm hoặc thế chấp một phần trái phiếu với lãi suất cao hơn để vay tiền mua lại phần còn lại. Bên cạnh đó, với tình hình kinh doanh ổn định, doanh nghiệp có thể thương lượng trực tiếp với trái chủ để họ chờ đến hạn.
Trong trường hợp trái chủ nhất quyết yêu cầu mua lại, doanh nghiệp có thể thương lượng để trái chủ chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu. Vừa qua, Citi Bank đã đồng ý chuyển đổi trái phiếu Novaland thành cổ phiếu NVL với giá 85.000 đồng/cổ phiếu, trong khi thị giá NVL chỉ hơn 20.000 đồng/cổ phiếu.
Riêng với những DN có tài chính không đủ mạnh hoặc kinh doanh kém quả quan, yêu cầu mua lại trái phiếu thực sự là áp lực không nhỏ.
Vì vậy, DN cần chuẩn bị một kế hoạch tái cấu trúc DN rõ ràng để thương lượng với trái chủ. Nếu không được, DN buộc phải bán các tài sản mình đang có để thanh toán với các trái chủ. Đó có thể là đất đai, thương hiệu, hệ thống phân phối…
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể tìm giải pháp từ bên ngoài thị trường.
Gần đây, sau khi thị trường chứng khoán sau khi rớt điểm liên tiếp đã tăng lại, dòng tiền tăng lên đáng kể, doanh nghiệp vì thế có thể tính toán phương án huy động vốn qua thị trường này để thanh toán trái phiếu. Thậm chí họ có thể bán bớt cổ phiếu quỹ để thu tiền về.
Doanh nghiệp phát hành trái phiếu là cần nguồn vốn trung và dài hạn để phát triển, sau khi không huy động được bằng kênh cổ phiếu và vay ngân hàng. Vì thế thị trường Việt Nam rất cần những ngân hàng đầu tư (Investment Banking) có nguồn vốn lớn cho vay trung và dài hạn. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, họ sẽ đồng hành lâu dài bằng cách chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu.
Trong khi đó, luật sư Phạm Ngọc Hưng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh (HUBA) cho hay, nhà đầu tư cần tìm hiểu thông tin từ những nguồn tin cậy, minh bạch. Trước khi tiến hành đầu tư, nên quan sát thực trạng doanh nghiệp và ghi nhân thông tin từ những nguồn tin chính thống, rõ ràng. Trên thực tế rất nhiều nhà đầu tư nghe tin đồn thổi, tin hành lang và tiến hành đầu tư dẫn đến rủi ro.
Luật sư Phạm Ngọc Hưng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh cho rằng nhà đầu tư cần ghi nhận thông tin chính thống, rõ ràng về TPDN |
Một phần quan trọng khiến nhà đầu tư mất niềm tin vào TPDN là do những công ty phát hành công bố thông tin sai sự thật, thông tin giả, chất lượng tài sản đảm bảo của trái phiếu hạn chế, không có tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp không có phương án phát hành trái phiếu được phê duyệt và chấp thuận theo quy định, không có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán.
Đồng thời, đơn vị môi giới, các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán cần minh bạch hơn trong quá trình tư vấn phát hành trái phiếu. Thậm chí, nhiều đơn vị hoạt động môi giới đầu tư trái phiếu khi chưa được cơ quan thẩm quyền cấp phép.
Các công ty chào bán không tuân thủ quy định, chưa xác nhận minh bạch thông tin đơn vị phát hành trái phiếu. Thậm chí, các đơn vị tư vấn và đại lý phát hành đã có động thái để “hỗ trợ” nhà đầu tư không đủ tiêu chuẩn tham gia mua TPDN phát hành riêng lẻ để thu hút dòng tiền.
Liên quan đến pháp lý và tính khả thi cho các trái chủ khi được doanh nghiệp đề nghị đổi trái phiếu thành cổ phiếu, ông Hưng cho rằng, các công ty bất động sản nếu muốn bàn bạc với nhà đầu tư để hợp tác kinh doanh thì cần minh bạch các dự án, các vấn đề pháp lý, quy mô và tiến độ các dự án. Đồng thời, nhà đầu tư quan tâm nếu hoán đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu thì định giá tài sản như thế nào, dựa trên cơ sở nào để định giá, làm thế nào để đảm bảo quyền lợi của trái chủ.
“Nói chung, thị trường trái phiếu vẫn còn nhiều doanh nghiệp lành mạnh. Những trái phiếu có tài sản đảm bảo thì tính an toàn vẫn cao. Đồng thời, cơ quan chức năng cũng tính cực điều phối như vụ việc SCB để đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư. Cuối cùng, nếu nhà đầu tư cảm thấy có dấu hiệu lừa đảo thì có thể tố cáo đến cơ quan công an để được thụ lý hồ sơ”, luật sư Hưng nói.
Khan hiếm văn phòng cho thuê, trái phiếu doanh nghiệp suy giảm | |
Mua trái phiếu, nâng tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư | |
Giải pháp gỡ khó cho thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp? |
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại