Nhiều khoảng trống pháp luật trong phòng chống bạo lực tình dục
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênĐó là những khoảng trống của pháp luật hiện hành trong phòng, chống bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em gái được chỉ ra tại Tọa đàm do Bộ LĐ-TB&XH tổ chức sáng 5-12 tại Hà Nội
Tọa đàm “Bạo lực tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái: khoảng trống pháp luật và dịch vụ hỗ trợ” là một trong chuỗi các hoạt động hưởng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2018 (diễn ra từ ngày 15-11 đến ngày 15-12) với chủ đề “Chủ động phòng, chống bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em”.
Hơn 50% phụ nữ từng chịu một trong ba hình thức bạo lực
Theo Báo cáo về phụ nữ thế giới năm 2015 của Liên hợp quốc, trên thế giới cứ 03 phụ nữ thì có 01 người từng trải qua bạo lực thân thể hoặc tình dục trong cuộc đời; ở một số quốc gia, con số này là 70%. Vấn đề bạo lực sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ cho phụ nữ và các trẻ em gái như bị tổn thương cơ thể, trầm cảm, mang thai ngoài ý muốn, bị mua bán, thậm chí là tử vong.
Ở Việt Nam, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà thông tin: “Hiện vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể về tình trạng bạo lực với phụ nữ và trẻ em, nhưng có thể ước tính khoảng trên 50% phụ nữ từng phải chịu ít nhất một trong ba dạng bạo lực về thể xác, tình dục hoặc tinh thần trong đời”.
Bạo lực với phụ nữ và trẻ em diễn ra dưới nhiều hình thức và ở nhiều môi trường khác nhau, từ trong gia đình tới cộng đồng và xã hội. Tình trạng bạo lực gây nên những trở ngại cho nỗ lực thúc đẩy phát triển bền vững, gìn giữ hòa bình và bình đẳng trong mọi xã hội.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà, có nhiều khó khăn trong việc phòng chống bạo lực nói chung và bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em vì những đặc thù riêng. “Phụ nữ khó tố cáo các vụ việc bị bạo lực tình dục và tìm kiếm sự hỗ trợ, tư vấn kịp thời so với những dạng bạo lực thể xác. Trong khi đó, việc xử lý và can thiệp đôi lúc còn chưa kịp thời và thoả đáng, gây ra bất bình trong xã hội”.
Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà, thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực thực thi các giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và bảo đảm quyền con người, trong đó có phụ nữ và trẻ em.
Trong đó, Bộ LĐ-TB&XH đã triển khai các hoạt động, một số mô hình như: Địa chỉ tin cậy, nhà tạm lánh tại cộng đồng, cơ sở trợ giúp pháp nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới, trung tâm công tác xã hội cung cấp dịch vụ bình đẳng giới, trường học an toàn, thân thiện không bạo lực, thành phố an toàn, thân thiện với phụ nữ và trẻ em… Các mô hình được triển khai thực hiện nhằm từng bước góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng, giảm thiểu nguy cơ và cải thiện chất lượng dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới.
“Tác động của các chương trình, mô hình có thể thấy được qua việc một số phụ nữ và trẻ em gái bị bạo lực tình dục thay vì cam chịu như trước đây đã dám lên tiếng tố cáo để các cơ quan chức năng vào cuộc điều tra, xử lý; cộng đồng cũng đã bày tỏ quan điểm ủng hộ người bị bạo lực và yêu cầu xử lý thích đáng người có hành vi bạo lực tình dục”, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà thông tin.
Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt được, theo đại diện lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XHH, “so với các dạng bạo lực khác, việc xử lý, can thiệp kịp thời các vụ việc bạo lực tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái cũng còn gặp những khó khăn nhất định như: Phụ nữ khó tố cáo các vụ việc bị bạo lực tình dục và tìm kiếm sự hỗ trợ, tư vấn kịp thời so với những vấn đề bạo lực thể xác. Việc xử lý và can thiệp đôi lúc chưa kịp thời, chưa thỏa đáng đã gây ra sự bất bình trong xã hội”.
Nạn nhân bạo lực tình dục khó lên tiếng
Đồng quan điểm về những khó khăn trong phòng chống bạo lực, bà Đỗ Thị Thu Hà - Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam cho rằng bạo lực nói chung và bạo lực tình dục nói riêng xảy ra trên toàn thế giới, nạn nhân chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.
“Tại Việt Nam, một nghiên cứu của Bộ LĐ-TB&XH và Tổ chức ActionAid năm 2016 tại 5 tỉnh, thành phố cho thấy, khoảng 51 % phụ nữ được hỏi cho rằng từng bị quấy rối tình dục một lần” - bà Đỗ Thị Thu Hà nói.
Đáng quan tâm, trong số những người bị quấy rối tình dục được phỏng vấn, chỉ có 1,9% nói rằng họ đã tìm kiếm hỗ trợ từ cơ quan chức năng. Còn trong số những người đã chứng kiến phụ nữ bị quấy rối ở khu vực công cộng, 65% chia sẻ đã không thực hiện bất kỳ hành động hỗ trợ nào giúp nạn nhân. Nhiều phụ nữ không an toàn trong nhà riêng của họ, họ bị chồng ép hoặc cưỡng bức quan hệ tình dục khi họ không muốn.
“Bạo lực và quấy rối tình dục thường được coi là chủ đề nhạy cảm, khó chia sẻ, thảo luận trước công chúng. Hơn nữa, những định kiến chống lại nạn nhân bạo lực tình dục đã làm cho họ chưa được bảo vệ một cách đầy đủ và phải đối mặt với những hậu quả tiêu cực khi lên tiếng và đi tìm công lý. Họ thường bị đổ lỗi và còn bị cho là phải chịu trách nhiệm đối với những hành vi bạo lực hay quấy rối. Chính vì điều đó, nhiều người đã không tin vào các câu chuyện mà phụ nữ đã chia sẻ, thậm chí có người còn quay lưng chống lại họ, đẩy họ vào tình thế im lặng” – bà Đỗ Thị Thu Hà lý giải.
Thiết lập dịch vụ hỗ trợ chất lượng, dễ tiếp cận với nạn nhân của bạo lực tình dục
Tại Tọa đàm, nhiều ý kiến đại biểu đánh giá thời gian qua, nhiều nỗ lực nhằm ngăn chặn và ứng phó với các hình thức bạo lực tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái đã được thực hiện nhằm thay đổi nhận thức thái độ và hành vi của người dân cũng như của các nhà hoạch định, thực thi chính sách.
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2012 có quy định nghiêm cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Luật Giáo dục 2009 có quy định xử lý việc xâm phạm nhân phẩm, thân thể nhà giáo, ngược đãi, hành hạ học trò trong các cơ sở giáo dục. Luật Thanh niên năm 2005 cũng quy định trách nhiệm nhà nước phải bảo vệ thanh niên trong độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi.
Những khoảng trống pháp lý trong phòng chống bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em gái đã được các đại biểu trao đổi, thảo luận tại tọa đàm |
Tuy nhiên việc thực thi các quy định trong luật chưa chặt chẽ và các nỗ lực giám sát cần phải được cải thiện. Theo Thẩm phán, TS Trần Thị Lịch, vẫn còn rất nhiều khoảng trống pháp luật trong hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân của nạn bạo lực tình dục. Trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 không quy định về hành vi quấy rối tình dục mà chỉ quy định các hành vi xâm hại tình dục. Trong quá trình xét xử các vụ án về xâm hại tình dục thường gặp phải những vướng mắc, bất cập như: Trong Bộ luật chưa quy định rõ như thế nào là hành vi xâm hại tình dục, dâm ô… dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau; Luật chưa quy định việc giám định y tế phải thực hiện ngay; mức bồi thường thiệt hại cho nạn nhân thường rất thấp do pháp luật chưa quy định cụ thể, dẫn đến mỗi địa phương khi xét xử lại có cách áp dụng hình phạt tiền một cách khác nhau.
Bên cạnh đó, một loạt khó khăn trong bảo vệ nạn nhân bị bạo lực tình dục cũng được đặt ra như: Khó khăn xác định định tuổi người bị hại; khó khăn trong giám định y tế do người bị hại không biết giữ gìn, bảo quản, thu thập chứng cứ; bị cáo và người bị hại có quan hệ thân thích, sống trong cùng một gia đình; chưa có mô hình chuẩn dịch vụ nạn nhân bạo lực tình dục; chính sách đã ban hành nhưng còn nhiều vướng mắc, chưa thể áp dụng…
Theo bà Hà Quỳnh Anh (Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam), bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em gái là vấn đề những nhối trong xã hội. Những vụ việc được phát hiện và xử lý được chỉ như phần nổi của tảng băng chìm. Do đó để giải quyết vấn đề này hoàn thiện hệ thống pháp lý cần được hoàn thiện đảm bảo giải quyết bạo lực được thỏa đáng để nạn nhân có được sự tin tưởng để lên tiếng.
Cùng với đó, cần thiết lập các dịch vụ hỗ trợ có chất lượng bao gồm chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ tâm lý, an toàn, trợ giúp pháp lý và hệ thống tư vấn hỗ trợ thông tin sẵn có và dễ tiếp cận với nạn nhân của bạo lực tình dục. Điều quan trọng là phải thay đổi tư duy và thái độ của người dân về bạo lực giới, đặc biệt là bạo lực tình dục, bao gồm quấy rối tình dục. Nam giới cần phải nhận ra rằng phụ nữ bình đẳng với họ, và tôn trọng quyền của phụ nữ để đảm bảo phụ nữ được an toàn trong bất kỳ môi trường nào ở nhà, nơi làm việc hay ở nơi công cộng.
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại