Ký sự Tây Bắc - Kỳ 3: Lên Tây Bắc say chuyện “vợ chờ chồng, ngựa chờ chủ”
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênDọc tuyến QL 6 này, người Thái, Mông, Hà Nhì… đã sinh sống trên khắp các bản làng từ bao đời. Có những nếp sinh hoạt thường nhật của họ lại trở thành điều thú vị với bao người, trong đó phải kể đến cái lệ “vợ chờ chồng, ngựa chờ chủ” của người dân tộc Mông.
Lệ độc đáo chỉ có ở vùng cao
Tuyến QL 6 lên Điện Biên hôm nay có lúc bừng sáng, ánh mặt trời chênh chếch xuyên qua những mỏm núi cao chót vót lộ rõ một khoảng không với núi rừng trùng điệp xếp lớp lên nhau, thi thoảng lại chìm đắm trong mịt mù sương khói như là ảo ảnh. Ngồi trong xe và nhìn ra xung quanh núi non hùng vĩ, những con đường uốn lượn đẹp tựa như một bức tranh, tôi chợt nhớ trong một mớ hỗn độn những ký ức của mình đã từng nghe đâu đó câu chuyện “vợ chờ chồng, ngựa chờ chủ”.
Tĩnh lặng trong không gian huyền ảo ấy, tôi mới “à” thầm trong lòng. Thì ra, những cuộc “trà dư tựu hậu” chẳng bao giờ vô nghĩa. Bởi cũng trong một cuộc như thế, tôi có nghe anh Tân, cán bộ vùng cao Hà Giang mà tôi từng quen trong chuyến công tác ở Cao Bằng năm ngoái kể về câu chuyện độc đáo này.
Tìm hiểu của người viết được biết, không chỉ riêng Điện Biên, Hà Giang mà rất nhiều vùng đất có người dân tộc Mông sinh sống, câu chuyện “vợ chờ chồng, ngựa chờ chủ” vẫn được coi là phổ biến. Đó là những ngày chợ phiên náo nức, khi trai gái dập dìu tìm bạn, người bản ở khắp mọi nẻo đường tìm về chợ phiên một cách đầy háo hức. Bởi theo thông lệ, chợ phiên vùng cao thường chỉ họp một tuần một lần vào ngày chủ nhật. Người vùng cao đi chợ phiên mua sắm đồ dùng, vật dụng cá nhân cũng như lương thực và thực phẩm cho cả gia đình dùng trong một tuần. Hàng quán không sẵn có do điều kiện kinh tế nhiều nơi còn khó khăn. Thế nên chợ phiên mỗi ngày chủ nhật còn là nơi hò hẹn, nơi giao lưu và gắn kết tình cảm. Ở những phiên chợ này, nhiều nét văn hóa đặc sắc cũng được thể hiện rõ nhất.
Có lẽ cũng bởi chợ phiên độc đáo và hội tụ văn hóa miền sơn cước nên lâu nay, người dưới xuôi có dịp lên công tác hay đi phượt thì rất thích gặp chợ phiên. Không chỉ là mua hàng đặc sắc mà còn là cảm nhận một miền văn hóa bất tận với nhiều nét đẹp mà không đâu có được. Trong những nét văn hóa đặc sắc ấy, thấy lệ “vợ chờ chồng, ngựa chờ chủ” thật là độc đáo.
Hầu hết phụ nữ đều thường không thích đàn ông rượu chè đến mức say xỉn. Nếu có là một phụ nữ có cách nghĩ phóng khoáng và độ lượng, có khi người chồng say cũng phải nghe đôi ba điều cằn nhằn thế này, thế khác. Nghiêm trọng hơn, có khi một cuộc say dẫn đến sự bất hòa. Thế nhưng đâu đó trên những bản làng vùng cao Tây Bắc, người phụ nữ Mông vẫn kiên nhẫn đợi chồng say. Với họ, biết đợi được chồng say để đưa chồng về nhà an toàn, ấy cũng là cách ứng xử cần học tập và là hạnh phúc của người chồng. Trong các cuộc nhậu, người chồng có thể hết mình với bạn bè và yên tâm có người vợ luôn chờ đợi.
Sau khi chợ phiên đã tàn, người tới chợ cũng dần thưa thớt thì một cái lệ vẫn chưa thay đổi. Ấy là khi những người đàn ông rời sự náo nhiệt, thong dong đi vào các quán nhậu trong thị trấn. Bỏ hết mọi lo toan, sự đời bên ngoài cửa quán, họ nhậu “cho đã”, cho say. Lạ thành quen, quen thành thân, thân lại sinh bạn hữu cho những cuộc nhậu chợ phiên sau, họ như ngầm hẹn với nhau, không say không về. Ngựa buộc ngoài cửa đợi chủ, vợ tìm bóng cây râm mát cạnh quán đợi chồng. Điều đặc biệt là, những người phụ nữ không hề tỏ vẻ khó chịu. Những con ngựa cũng ngoan ngoãn đợi chủ như đã được huấn luyện từ trước. Điều này tưởng như là một sự lạ.
Chờ đợi là biết yêu thương?
Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ tin có cái nghịch lý ấy tồn tại nếu không phải là một thanh niên bản địa đã giúp tôi củng cố kiến thức cho riêng mình. Đó là anh bạn thời còn chung lớp ĐH tên Hoàng, người Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên mà tôi có dịp gặp lại sau nhiều năm ra trường trong chuyến công tác lần này.
Gã nháy mắt cười dí dỏm bảo tôi có muốn lấy vợ Mông để được chiều chồng say như thế không thì cứ thổ lộ, gã sẽ “mai mối”. Nhưng chắc gã cũng thừa biết một người làm nghề báo như tôi mong muốn thỏa mãn trí tò mò của mình như thế nào và mê việc tìm hiểu rõ thông tin ra sao nên gã cũng chậm rãi chia sẻ với tôi bên ly cà phê của ngày gặp vội vàng.
Hoàng cho biết, chính gã cũng khó cắt nghĩa vì sao người phụ nữ Mông lại có thể chiều chồng và nhẫn nhịn với việc say xỉn của chồng như thế. Mặc dù gã là người bản địa, cha ông, tổ tiên của gã bao đời lớn lên và nằm xuống cũng ở mảnh đất này. “Cậu cứ nghĩ mà xem, cánh đàn ông chúng mình thi thoảng có bạn bè, la cà một chút mà không may mải vui quên sự đời quá chén, giọng lè nhè là hôm sau biết tội tình ngay. Chả biết vợ ông thế nào chứ vợ tôi có khi giận cả mấy ngày”, Hoàng vui vẻ nói.
Rồi gã bảo, không phải ai cũng tinh mắt thấy cái lệ hay hay này đâu. Nhiều khi đi đến những chợ phiên chiều chủ nhật, chợ tàn rồi mà phụ nữ Mông vẫn cứ dong ngựa chưa về. Không phải vì sắm đồ chưa đủ mà vì chồng chưa say nên chưa về được. Đàn ông người Mông không uống rượu thì thôi chứ sau một tuần chăm chỉ làm ăn vất vả, họ đến chợ phiên là cứ phải say mới về. Đấy cũng là một điều rất thú vị trong cách sinh hoạt và không phải người dân tộc Mông ở vùng nào cũng giống nhau. Nhiều nơi, thanh niên Mông cũng không còn say xỉn nhiều như thế. Nhưng ngược lại, có những vùng, họ say đã thành lệ rồi.
Không chỉ làm tài xế đưa vợ đến chợ phiên, người đàn ông Mông còn có những lời hò hẹn với bạn rượu. Bởi thế, rượu như một ma lực khó cưỡng để họ cùng tụ hội về chợ phiên. Ai cũng biết rượu không phải thức uống bổ dưỡng gì cho cơ thể. Nhưng chén rượu vơi đầy lại là một phần kết nối những cuộc vui. Người phụ nữ Mông cũng luôn giữ nguyên tắc của mình, họ rất hiếm khi theo chồng vào bàn nhậu, trừ lý do đặc biệt. Đa phần họ địu con đi sắm đồ ở chợ, sau đó đợi chờ chồng và không bao giờ vào gọi. Chỉ khi người chồng đã lất khất hơi men, họ mới tới dìu lên lưng ngựa để cùng nhau về nhà.
Hoàng còn cho tôi biết, nhiều khi người đàn ông đi một mình một ngựa, tới lúc say lại được ngựa đưa về nhà. Giống ngựa rất khôn, nó ngoan ngoãn chờ chủ rồi có thể nhớ đường về mà không cần người chủ tỉnh táo. Cứ khi nào người chủ trèo được lên yên là con ngựa sẽ đưa chủ về đến tận nhà. “Ngựa quen đường cũ”, nên dù đường có xa đến mấy thì cả chủ và ngựa đều sẽ về được đến nhà.
Trên các bản làng vùng Tây Bắc, có khi đi từ nhà ra chợ đường rừng cũng phải vài chục cây số. Nhưng điều đó không phải là ngăn cách của họ với những cuộc vui giữa chợ phiên náo nức. Họ sẽ dậy từ sớm, có khi 3-4 giờ sáng đã bước chân thoăn thoắt ở những ngọn đồi để xuống chợ kịp một ngày vui.
Bây giờ cuộc sống đổi thay, nhiều người dân tộc Mông đã có điều kiện hơn, họ sẽ đi xe máy xuống chợ. Nếu người chồng có say, người vợ sẽ chở chồng về. Còn khi người chồng say quá, vợ chồng dừng xe, vợ lấy khăn ngồi thêu bên mỏm đá, chồng nằm ngủ một giấc say nồng. Với người vùng cao Tây Bắc này, thời gian không bao giờ là vấn đề quá quan trọng. Họ có thể nằm ngủ ven đường từ trưa đến tối, có thể dừng lại bất cứ bìa rừng nào để ngủ một giấc qua cơn say, rồi tỉnh táo trở về nhà.
“Người ta vẫn truyền tai nhau rằng, người Mông nói chờ đợi chồng say cũng là một cách thể hiện tình cảm. Nếu thực sự yêu chồng, hãy cứ để chồng làm điều chồng thích, kể cả được say. Không cằn nhằn mà vẫn đưa chồng về đến nhà thì mới là người vợ tốt. Không biết thực hư chuyện đó thế nào, nhưng ông bạn cứ có dịp trò chuyện với người Mông bản địa sẽ được nghe những lệ truyền miệng như thế”, Hoàng phá lên cười và nói với tôi như vậy.
Để có thêm tư liệu cho bài viết của mình, khi về Hà Nội, tôi có liên hệ lại với anh Tân, cán bộ văn hóa ở huyện Đồng Văn, Hà Giang, người tôi đã nhắc đến ở đầu bài viết này để hỏi thêm về tục lệ người Mông ở trên quê hương anh. Anh Tân khẳng định: “Chuyện phụ nữ Mông kiên nhẫn đợi chồng say là có thật, đến bây giờ vẫn còn nhưng đa phần giờ người ta đi xe máy, ít đi bằng ngựa hơn. Còn chuyện chờ chồng say để thể hiện sự yêu chồng, tôi cũng nghe bà con nói thế chứ không có văn bản chính thức nào ghi lại”.
(Còn nữa)
Khánh Phong / PL&XH
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại






