Quốc dân Đại hội Tân Trào - biểu tượng sáng ngời cho tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên![]() |
| Đình Tân Trào (huyện Sơn Dương trước đây, tỉnh Tuyên Quang) - nơi diễn ra Quốc dân Đại hội Tân Trào. Ảnh tư liệu |
Tư tưởng đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quốc dân đại hội Tân Trào là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử Việt Nam mà lãnh tụ Hồ Chí Minh vừa là người chủ trương triệu tập, chủ xướng, định hướng vừa là người lãnh đạo, chỉ đạo Quốc dân Đại hội Tân Trào. Những quyết sách trọng đại của Đại hội đều mang đậm dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lãnh tụ Hồ Chí Minh là kiến trúc sư thiên tài kiến tạo nên sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945.
Trong tiến trình dòng chảy của lịch sử đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, Quốc dân Đại hội Tân Trào (16-17/8/1945) không chỉ là sự kiện có ý nghĩa chiến lược quyết định tới sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn là biểu tượng sinh động cho tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử, một hội nghị quy tụ đầy đủ các đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp dân tộc, tôn giáo trên cả nước nhằm thống nhất ý chí và hành động, phát huy sức mạnh toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập, tự do.
Lịch sử cách mạng Việt Nam suốt 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng, Quốc dân Đại hội Tân Trào đã thể hiện tầm vóc tư duy chính trị, tầm nhìn chiến lược đại đoàn kết dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng thời đặt nền móng chính trị, tư tưởng cho các chính sách đại đoàn kết về sau của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ Hồ Chí Minh bắt nguồn sâu xa từ lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, từ truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần đoàn kết cộng đồng. Những giá trị mà cha ông ta đã đúc kết như “bầu ơi thương lấy bí cùng”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” đã ăn sâu trong máu thịt, thấm sâu vào tư duy chính trị của Người.
Trong hành trình hoạt động cách mạng, tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lên Nin, đặc biệt là quan điểm về liên minh công nông, về đoàn kết giai cấp và đoàn kết quốc tế. Người đã từng khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
Từ sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, phong trào Duy tân… của các văn thân, sỹ phu yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu, nhận thấy rõ nguyên nhân thất bại chính là thiếu sự đoàn kết nội bộ dân tộc đoàn kết rộng rãi và thiếu một mặt trận thống nhất rộng rãi.
Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Người luôn coi đại đoàn kết là chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, không chỉ là một sách lược tạm thời. Khác với khái niệm đoàn kết giai cấp đơn thuần trong chủ nghĩa Mác - Lên Nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước, không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo. Người nêu rõ: “Ai là người Việt Nam yêu nước thì đều phải đoàn kết lại để đánh giặc, cứu nước”.
Trong quá trình xây dựng khối đoàn kết, Người luôn lấy lợi ích dân tộc là điểm đầu, là cơ sở. Người vận động đoàn kết bằng cách nhấn mạnh đến mẫu số chung là lợi ích dân tộc, Tổ quốc, đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết. Người kết hợp hài hòa giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, nhưng lấy giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cốt lõi.
Mùa xuân năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về nước sau 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII tại lán Khuổi Nậm, Pắc Bó (Cao Bằng).
Với nhận thức sâu sắc rằng “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn” nên giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chung của tất cả các giai cấp, đảng phái, tôn giáo…được tập hợp trong “Việt Nam Độc lập Đồng minh” (gọi tắt là Việt Minh) được thành lập ngày 19/5/1941 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Cùng với sự phát triển của Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể Cứu quốc như “Công nhân cứu quốc”, “Thanh niên cứu quốc”, “Phụ nữ cứu quốc”, “Phụ lão cứu quốc”, “Nhi đồng cứu quốc”… phát triển rộng khắp ba miền.
Như vậy, từ việc xác định rõ Nhật, Pháp là kẻ thù của Nhân dân Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam đã quyết định thay đổi chiến lược cách mạng, thay đổi từ việc lựa chọn mô hình “chính phủ công - nông- binh” trong Cương lĩnh tháng 2/1930 của Đảng cộng sản Việt Nam thành mô hình “chính phủ dân chủ cộng hòa” năm 1941. Đó là một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một sáng tạo của Người về thể chế chính quyền nhà nước trong quá trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Quán triệt tinh thần của Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (1941), dưới ngọn cờ cứu nước của Việt Minh, Nhân dân ta đã bước vào cuộc vận động giải phóng dân tộc, chuẩn bị lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, xem khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm để khi thời cơ cách mạng đến và chín muồi thì phát động tiền khởi nghĩa ở các địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, giành chính quyền về tay Nhân dân.
Chính nhờ vai trò trung tâm đoàn kết toàn dân tộc mà Việt Minh đã quy tụ được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, thổi bùng ngọn lửa cách mạng khắp nơi, tạo điều kiện thuận lợi để phát động tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Mặt trận Việt Minh như là một tổ chức “tiền chính phủ”, ngoài chức năng đoàn kết dân tộc, nó còn đóng vai trò nòng cốt, quyết định trong việc chuẩn bị lực lượng và tổ chức lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, bảo vệ chính quyền.
Sự ra đời và hoạt động của Việt Minh là minh chứng rõ nét cho vai trò của khối đại đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc, góp phần làm nên thắng lợi lịch sử trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.
![]() |
| Nhân dân Hà Nội chiếm Bắc bộ phủ tháng 8/1945. Ảnh tư liệu |
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đang bước vào giai đoạn kết thúc và ưu thế trên chiến trường đang thuộc hoàn toàn về phe Đồng minh. Chủ nghĩa phát xít đang đến ngày tận thế. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật tiến hành đảo chính Pháp để độc chiếm quyền kiểm soát Đông Dương.
Đến giữa tháng 8/1945, Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện và quân Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Thời cơ “ngàn năm có một” được mở ra cho cách mạng Việt Nam có thể tiến hành Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, giành chính quyền về tay nhân dân.
Tuy nhiên, tình hình chính trị xã hội trong nước lúc này hết sức phức tạp. Các tổ chức, lực lượng, đảng phái chính trị có quan điểm khác nhau về đường lối và hành động. Lực lượng tay sai thân Nhật còn tồn tại. Tình hình, hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ cần thiết phải có một đại hội đại diện toàn quốc để thống nhất ý chí toàn thể dân tộc. Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã trở thành lực lượng chính trị trung tâm, tập hợp quần chúng khắp cả nước chuẩn bị cho một cuộc tổng khởi nghĩa.
Quốc dân Đại hội Tân Trào triệu tập chính là sự đáp ứng nhu cầu cấp bách đó.
Chuẩn bị cho cách mạng trong cả nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Ngay từ tháng 10/1944, Người đã viết “Thư gửi đồng bào toàn quốc”. Người phân tích tình hình và nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam và cho rằng: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”. Muốn vậy, cần phải có một “Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu ra”, “phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta”.
Để chuẩn bị cho cách mạng trong cả nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ từ ngày 15/4 đến 20/4/1945 tại Hiệp Hòa (Bắc Giang).
Trong hội nghị này yêu cầu “cần phải nhanh chóng tổ chức ra chính quyền cách mạng hay những hình thức quá độ”. Đối với những khu căn cứ cách mạng thì tổ chức ra Ủy ban nhân dân cách mạng các cấp bằng phổ thông đầu phiếu, còn ở những nơi “chưa đánh đổ được chính quyền của địch thì tổ chức ra Ủy ban dân tộc giải phóng”. Trên phạm vi toàn quốc, Hội nghị đề nghị triệu tập một cuộc Đại hội Đại biểu gồm các giới, các đảng phái, các thân sỹ toàn quốc để thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam tiến tới thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam”.
Trên tinh thần đó, ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức “Ủy ban dân tộc giải phóng” các cấp và nhấn mạnh đó là “hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng”.
Sau một thời gian ở Trung Quốc, vào cuối tháng 4/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Pắc Bó và đến đầu tháng 5/1945, Người đến chiến khu Hoàng Hoa Thám và chọn Tân Trào (thuộc huyện Sơn Dương, Tuyên Quang) làm căn cứ chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội Quốc dân. Sau khi nắm bắt đầy đủ tình hình trong nước và tinh thần Hội nghị Quân sự Bắc kỳ, Người đã chỉ thị nhanh chóng lập một khu căn cứ cách mạng rộng lớn lấy tên là “Khu Giải phóng” bao gồm hầu hết địa bàn các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và một số vùng phụ cận của các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.
Trên tinh thần đó, ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ Việt Minh tuyên bố chính thức thành lập “Khu Giải phóng”.
Như vậy, việc thành lập và xây dựng “Khu Giải phóng” cũng như quá trình thực hiện một cách hiệu quả Mười chính sách lớn của Việt Minh tại đây đã làm cho “Khu Giải phóng” chẳng những là căn cứ địa kháng Nhật quan trọng của cách mạng mà còn là hình ảnh phôi thai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sắp ra đời.
Đến giữa năm 1945, khi phong trào “Kháng Nhật cứu nước” đang dâng cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định “Cơ hội ngàn năm có một” đã cận kề và trực tiếp chỉ thị gấp rút triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập chính phủ lâm thời cách mạng của nước Việt Nam.
Người trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các bước chuẩn bị, lựa chọn Tân Trào làm điểm tổ chức vì đây là căn cứ địa an toàn, hội tụ đầy đủ yếu tố địa - chính trị thuận lợi.
Quốc dân Đại hội Tân Trào họp trong 2 ngày 16 -17/8/1945 tại đình Tân Trào, huyện Sơn Dương trước đây (Tuyên Quang) với sự tham dự trên 60 đại biểu 3 miền Bắc - Trung - Nam, trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ vai trò trung tâm trong việc lên kế hoạch, triệu tập và chỉ đạo Đại hội.
![]() |
| Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Cán bộ Công đoàn cơ sở toàn miền Bắc, ngày 13/8/1945. Ảnh tư liệu |
Ngày 9/3/1945, Nhật bất ngờ đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Tình thế cách mạng đang đến rất gần. Ngay đêm Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp ở Đình Bảng, Từ Sơn (Bắc Ninh) do Trường Chinh chủ trì.
Hội nghị khẳng định: “Chính biên ngày 9/3/1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyền Pháp, tước khi giới của Pháp, chiếm hẳn lấy Đông Dương làm thuộc địa riêng của chủ nghĩa đế quốc Nhật”.
Ngày 12/3/1945, Hội nghị ra bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, phân tích nguyên nhân, mục đích và diễn biến cuộc đảo chính và chỉ ra rằng sự kiện này đã gây ra “một cuộc khủng hoẳng chính trị sâu sắc”. Ban Thường vụ Trung ương cũng dự liệu tới “những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi” và “một cao trào cách mạng sẽ nổi dậy”. Đảng cho rằng, lúc này cách mạng nước ta đang ở trong “thời kỳ tiền khởi nghĩa” và đem khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” với nhiệm vụ trung tâm là “Phát động một phong trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa” và “sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện”.
Với chủ trương đó, bản Chỉ thị ngày 12/3/1945 nêu rõ phương hướng tổ chức và hoạt động vũ trang, trong đó “Về tổ chức: cùng với việc mở rộng cơ sở Việt Minh, tổ chức thêm nhiều tự vệ, du kích và tiểu tổ du kích; thành lập những căn cứ địa mới; thống nhất các chiến khu và phát triển “Việt Nam Giải phóng quân”; tổ chức “Ủy ban quân sự cách mạng” (tức Ủy ban khởi nghĩa); thành lập “Ủy ban Nhân dân cách mạng Việt Nam” theo hình thức một “Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam” với hệ thống các cấp, ở từng địa phương, cơ sở”.
Bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng là một văn kiện cực kỳ quan trọng, được đưa ra vào một thời điểm mang tính bước ngoặt lịch sử. Những chỉ dẫn trong bản chỉ thị lịch sử này được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn sau đó đã góp phần mở đường cho thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngày 11/8/1945, khi hay tin Nhật sắp đầu hàng Đồng minh, lập tức ngay hôm sau, ngày12/8, Trung ương Đảng phát “Mệnh lệnh khởi nghĩa” giành chính quyền tại địa bàn Khu giải phóng.
Ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do TBT Trường Chinh đứng đầu và các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn. Ngay trong đêm 13/8, Ủy ban khởi nghĩa đã ban bố lệnh khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước với bản “Quân lệnh số 1”:
Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng đã nhóm họp tại Tân Trào. Nội dung của hội nghị xoay quanh vấn đề về tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trên phạm vi cả nước.
Đến giữa tháng 8 năm 1945, khi phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, Hồ Chí Minh nhận định “cơ hội ngàn năm có một” đã cận kề và trực tiếp chỉ thị gấp rút triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời của nước Việt Nam.
Quốc dân Đại hội Tân trào họp trong 2 ngày 16 -17/8/1945 tại đình Kim Long (Tân Trào), huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Tham dự đại hội có trên 60 đại biểu đại diện cho 3 miền Bắc-Trung- Nam, các đảng phái cách mạng, đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo trong nước và kiều bào ở Lào, Thái Lan. Lúc này, Lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng đã được phát đi nên Đại hội tiến hành rất khẩn trương để các đại biểu sớm về các địa phương lãnh đạo Nhân dân khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, Đại hội khai mạc chính thức dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh. Trường Chinh đọc báo cáo các vấn đề lớn như Tổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng. Đại hội thống nhất tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa mà Đảng cộng sản Đông Dương và Việt Minh đã đề ra, quyết tâm “Giành lấy chính quyền” từ tay phát xít Nhật và chính quyền bù nhìn, trên cơ sở chính quyền Nhân dân sẽ tiếp quân Đồng minh vào giải giáp trên đất nước ta.
Sau đó, Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh. Mười chính sách này thể hiện đường lối cơ bản của 1 nhà nước cách mạng sắp thành lập.
Đại hội cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch để chỉ huy cuộc Tổng khởi nghĩa. Nghị quyết của Quốc dân Đại hội nêu rõ:
Ủy ban này cũng như Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam trước khi thành lập một chính phủ chính thức, Ủy ban này thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước.
Các chính sách phản ánh tư tưởng dân chủ và quyền lợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời phù hợp với chủ trương “phát triển lực lượng vũ trang, giải phóng dân tộc” của Việt Minh. Trong 10 chính sách trên, có nhiều nội dung do Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đó như tôn trọng quyền tự do, bình đẳng; chính sách ruộng đất; bãi bỏ thuế khóa…
Đại hội đã bầu "Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam" - tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 15 ủy viên. Lãnh tụ Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch và các ủy viên: Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Đang. Một Ban thường trực của Ủy ban cũng được cử ra gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng và Dương Đức Hiền.
Sự kiện này đặt Chủ tịch Hồ Chí Minh ở vị trí thủ lĩnh nhà nước cách mạng lâm thời, thể hiện rõ uy tín chính trị của Hồ Chí Minh trước quốc dân đồng bào. Việc một nhân vật duy nhất được Đại hội bầu làm Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng là Hồ Chí Minh cho thấy vai trò quyết định của Người trong tiến trình giành chính quyền cũng như khả năng tập hợp lực lượng của Người.
Đại hội cũng thống nhất Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh và Quốc ca là bài “Tiến Quân ca”. Đây đều là các biểu tượng được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Minh lựa chọn từ trước đó. Việc xác lập lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh trở thành Quốc kỳ chính thức cũng là một quyết định lịch sử mang dấu ấn của Người và khẳng định tư tưởng, tinh thần độc lập, thống nhất của dân tộc.
Tất cả các quyết sách này được thống qua với ý chí quyết tâm cao, thể hiện niềm tin tuyệt đối vào đường lối cách mạng và sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những quyết sách trên đều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần và nội dung của Đại hội phản ánh tư tưởng “dân tộc và dân chủ” mà Người đã vận dụng một cách linh hoạt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Sáng ngày 17/8/1945, bế mạc Đại hội. Trước đình Tân Trào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các ủy viên Ủy ban dân tộc giải phóng tổ chức lễ tuyên thệ danh dự quyết hoàn thành sứ mệnh cao cả cứu nước, cứu dân. Ủy ban đã phát lệnh khởi nghĩa và ra lời hiệu triệu quốc dân đồng bào “hãy tuốt gươm lắp súng để định đoạt lấy số phận của mình”.
Thay mặt Ủy ban, Chủ tịch Hồ Chí Minh hô vang lời thề: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước. Xin thề!”.
Trước lúc bế mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc, hiệu triệu cuộc Tổng khởi nghĩa. Trong thư, Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”.
Thông điệp này như lời “Hịch tướng sỹ” của Trần Quốc Tuấn thế kỷ XIII, truyền cảm hứng và sức mạnh nội sinh cho cả dân tộc, kêu gọi đồng bào nhất tề nổi dậy, nó hoàn toàn phù hợp với tinh thần và quyết tâm của Đại hội. Ngày say khi Lệnh Tổng khởi nghĩa được ban hành, các lực lượng vũ trang cách mạng dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp lần lượt từ Tân Trào tiến về giải phóng các địa phương.
![]() |
| Bác Hồ từng dặn toàn dân, toàn quân ta: "Giữ gìn hòa bình là nhiệm vụ chung của toàn dân. Mỗi người dân Việt Nam phải là một chiến sĩ hăng hái đấu tranh cho hòa bình". Ảnh tư liệu |
Ý nghĩa của Quốc dân Đại hội Tân Trào
Thực tiễn của tiến trình lịch sử cách mạng Việt suốt 80 năm qua là sự minh chứng hùng hồn, sự khẳng định chắc chắn, Quốc dân Đại hội Tân Trào năm 1945 có ý nghĩa lịch sử vô cùng sâu sắc:
Thứ nhất và trước hết, đây là “tổ chức đại biểu đầu tiên” mang tính chất quốc hội trong lịch sử dân tộc, tạo cơ cấu chính quyền lâm thời hợp pháp, hợp hiến của Nhân dân Việt Nam thời bấy giờ. Ủy ban Dân tộc Giải phóng do Đại hội bầu ra ngày 16/8/1945 đã trở thành chính phủ lâm thời duy nhất đại diện hợp pháp của Nhân dân trong kháng chiến chống phát xít Nhật và thực dân Pháp sau đó. Việc hiến định Quốc kỳ, Quốc ca và thông qua 10 chính sách cơ bản đã đặt nền móng pháp lý cho chính quyền cách mạng.
Về chiến lược, việc triệu tập Đại hội để bầu ra chính phủ lâm thời đã giúp cho Mặt trận Việt Minh khẳng định được chủ quyền của Nhân dân trước mắt bạn bè quốc tế và phe Đồng minh, tạo tính hợp pháp cho chính quyền cách mạng ngay từ lúc đầu.
Thứ hai, Đại hội đã củng cố sự thống nhất và niềm tin của Nhân dân vào đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự có mặt và chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã tạo nên niềm tin tuyệt đối cho các đại biểu tham dự và đồng bào cả nước.
Thứ ba, các quyết sách của Đại hội được triển khai và thúc đẩy ngay sau đó dẫn tới sự bùng nổ và thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, giành chính quyền về tay nhân dân, trong đó thắng lợi quyết định cho cách mạng cả nước là ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Quốc dân Đại hội Tân Trào đã cung cấp chiến lược, kịch bản và yếu tố đoàn kết cần thiết để biến quyết sách của Đại hội thành thắng lợi. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập ngày 2/9/1945 với bản “Tuyên ngôn độc lập” được Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố tại Vườn hoa Ba Đình (sau này là Quảng trường Ba Đình) là thành quả tất yếu của quá trình đó.
Thứ tư, Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa thí điểm về tổ chức một cấu trúc nhà nước dân chủ nhân dân. “Đại hội đại biểu Quốc dân” với cơ cấu bầu cử và đa thành phần tham gia đã là bước chuẩn bị về mặt thế chế cho Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Giống như Hội nghị Diên Hồng dưới thời Trần thế kỷ XIII, Đại hội Tân Trào năm 1945 đã quy tụ mọi thành phần của xã hội để bàn chuyện quốc gia đại sự của nước non, thể hiện cho tinh thần đại đoàn kết toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định đây là “tiến bộ rất lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta” và những kinh nghiệm tại Đại hội sau này đã đúc kết những bài học kinh nghiệm quý báu cho việc tổ chức chính quyền Nhân dân và bầu cử dân chủ từ Quốc hội khóa I năm 1946 đến nay.
Ngày 28/8, địa phương cuối cùng trên toàn quốc là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng giành được chính quyền, tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước trong vòng 15 ngày.
Ngày 25/8/1945, ngay sau khi từ Khu giải phóng Việt Bắc về tới Hà Nội, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời, Chính phủ lâm thời quyết định mở rộng thành phần. Một số đảng viên cộng sản trong Chính phủ đã tự nguyện rút lui, nhường ghế cho một số nhân sỹ yêu nước, tiến bộ ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương được mời tham gia vào bộ máy chính quyền Trung ương. Tuyên cáo của Chính phủ lâm thời ngày 28/8/1945 nêu khẩu hiệu: “Toàn dân đoàn kết! Tranh thủ hoàn toàn độc lập!”. Đó “thật sự là một chính phủ quốc gia thống nhất giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính thức”.
Chính phủ lâm thời quyết định Lễ Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9/1945. Hai giờ chiều ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình), Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố bản “Tuyên ngôn độc lập” để tuyên bố với thế giới và quốc dân đồng bào về nền độc lập của Việt Nam cũng như sự ra đời của một nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
Thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ khai tử chế độ thuộc địa nửa phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân ta, dân tộc ta, đất nước ta sánh vai với các quốc gia trên thế giới mà còn làm sáng danh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ là một người yêu nước, một nhà cách mạng có trí tuệ, bản lĩnh, có tầm nhìn vượt trước thời đại về vấn đề thời cơ, mà còn khẳng định tính đúng đắn và sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
80 năm qua, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại đánh dấu những bước ngoặt to lớn mà một trong những nhân tố quyết định những thắng lợi to lớn đó chính là sự soi sáng của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Đất nước ta đang từng bước tiến lên kỷ nguyên mới, vận hội mới trong cuộc cách mạng hành chính, tinh gọn, tinh giản bộ máy nhà nước và thực hiện chính quyền 2 cấp ở tất cả các địa phương.Việc nghiên cứu, kế thừa và phát huy tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là yêu cầu cấp thiết trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh, phục vụ sự phát triển đất nước đang bước vào vận hội mới trong thời kỳ mới, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình để phát triển.
![]() |
| Nhà giáo Trần Trung Hiếu tham quan di tích lịch sử Lán Nà Nưa |
| 80 năm vang mãi lời Tuyên ngôn Độc lập | |
| Tinh thần cách mạng Tháng Tám là động lực cho Hà Nội tiên phong trong kỷ nguyên mới |
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại








