Phát lộ Mộ cổ đời Hán ở Việt Nam?
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên
Mộ nằm khá gần với chiếc giếng cổ và hai ngôi mộ Lục triều trước đó...
Những ngôi mộ có nhiều đồ tùy táng
Theo PGS. TS. Nguyễn Lân Cường, người đã trực tiếp khai quật những ngôi mộ cổ này, ban đầu, các nhà khoa học dự đoán khu vực này vốn là một nghĩa địa cổ, bởi trước đây đã phát hiện một số ngôi mộ cổ khác. Tuy nhiên, khi phát hiện được chiếc giếng cổ thì ông Cường lại nhận định rằng nơi này có thể là một quần thể dân cư, một làng giàu có tại Hà Nội thời đó bởi những ngôi mộ này đều là được làm khá kiên cố, có kèm đồ tùy táng. Có thêm chiếc giếng cổ là dấu hiệu của sự sinh hoạt của cộng đồng dân cư.
Về ngôi mộ được phát hiện mới đây, ông Cường cho biết, khi ông đến thì ngôi mộ đã gần như bị máy xúc cào hết, chỉ còn phần đáy mộ. Chiều dài mộ 4,3m, chiều ngang 0,94m. Chiều cao đã bị phá mất phần trên nên chỉ đo được phần còn lại 0,7m. Gạch xây mộ dài 28cm, rộng 16cm và dày 4,5cm. Dìa cạnh viên gạch hoàn toàn không có hoa văn "trám lồng" hay "xương cá" như ở hai ngôi mộ khai quật hồi tháng 4. Dưới đáy mộ không lát gạch như hai ngôi mộ trước, nhưng nhận rõ độ khum ở vách phía Tây của mộ. Ở giữa các viên gạch dường như có một chất kết dính, đây cũng là điểm khác biệt so với hai ngôi mộ trước. Đất trong mô khá cứng và không có bùn. Hiện vật tìm thấy hầu hết nằm ở đầu và cuối mộ gồm có đồ gốm và đinh quan tài bằng sắt. Ông Cường nhận định: "Dựa vào cấu trúc của mộ và hiện vật thu được, chúng tôi cho rằng ngôi mộ này cũng thuộc thời Lục triều (khoảng thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 6)".
Theo TS. Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, với cấu trúc của hai mộ tìm thấy hồi tháng 4 cùng với đồ gốm tùy táng trong mộ cho thấy chúng thuộc loại hình mộ Lục triều sớm, khá gần gũi với niên đại ngôi mộ gạch ở xã Tân Hòa, huyện Hoài Đức, Hà Nội đã được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam khai quật năm 1987.
So sánh hai mộ Ciputra với mộ Tân Hòa nói trên có thể nhận thấy một số điểm sớm hơn chút ít, thể hiện trên hoa văn gạch mộ và kiểu gạch lát nền đáy mộ. Những mộ đó khá gần gũi, cả về đồ tùy táng (gốm) với các mộ đời Đông Tấn khai quật được ở Quảng Tây, Quảng Đông (Trung Quốc). Vì thế, có thể nghĩ rằng đây là những mộ đời Đông Tấn, tức ở thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 5 sau Công nguyên. Niên đại hai mộ gạch Ciputra không cùng với niên đại giếng gạch phát hiện cách hơn 100m. Thường thì các khu mộ gạch cổ ở tương đối xa khu cư trú cùng thời. Kiểu giếng gạch như vậy khá giống những giếng gạch thời Đường - Nam Hán đào được khá nhiều ở Phiên Ngung (Quảng Châu, Trung Quốc). Việc phát hiện các mảnh sành, gốm vỡ thế kỷ 7-10 trong giếng khá phù hợp với khung niên đại Đường.
Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng loại giếng gạch như vậy không phải là loại giếng dân gian, bình dân mà thường là một phần của kiến trúc tôn giáo, quý tộc đương thời. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc cho rằng, khu vực phát hiện mộ cổ và giếng cổ từng là một thị trấn hay còn gọi là lỵ sở của đất Giao Châu xưa. Nơi này từng phát hiện nhiều ngôi mộ người Hán. Ông Nguyễn Vinh Phúc nhận xét, việc phát hiện những ngôi mộ cổ và giếng cổ tại khu đô thị Ciputra đã góp phần nói lên bề dày văn hoá lịch sử của đất Thăng Long. Điều này cho thấy những di sản còn tồn tại không chỉ hiện diện trong thành cổ mà còn ở cả vùng ngoại vi của đất Thăng Long. Theo ông Phúc, thôn Nhật Tảo (tên nôm là làng Kiểu) là một làng cổ có niên đại hàng nghìn năm cùng cụm với các làng Thượng Thụy (làng Bạc), Phú Gia (làng Gạ), Phú Xá (làng Xù) thuộc châu Từ Liêm xưa. Khu vực này có thời đã là một thị trấn hay còn gọi là lỵ sở của đất Giao Châu.
PGS.TS. Nguyễn Lân Cường -
người phụ trách cuộc khai quật khẩn cấp ngôi mộ cổ cuối tháng 8 vừa qua
Có liên quan đến 1 trong 12 sứ quân?
Mộ Hán không có nghĩa tất cả những người nằm trong mộ là người Hán, mà theo phân tích của các nhà khoa học, nhiều mộ được tìm thấy qua nghiên cứu cho thấy người được an táng là người Việt. Ngôi mộ ở xã Tân Hòa, theo GS. Hà Văn Tấn, có liên quan đến dòng họ Đỗ đã từng làm thái thú Giao Châu như Đỗ Tuệ Độ, Đỗ Tuệ Kỳ, Đỗ Chương Dân. Đất huyện Chu Diên bao gồm vùng đất phía Nam Hà Đông cũ, đất Hà Nam, Hưng Yên. Dòng họ Đỗ được biết đến bắt đầu từ thế kỷ thứ 4 và có ảnh hưởng tới tận thế kỷ 18,19. Năm 381, Đỗ Viện dẹp yên cuộc nổi dậy của Lý Tốn, thái thú Cửu Chân, đã được nhà Tấn thăng chức thứ sử Giao Châu. Năm 399, quân Lâm Ấp đánh chiếm Nhật Nam, Cửu Chân rồi tiến vào Giao Châu, Đỗ Viện đã dánh tan quân Lâm Ấp. Nhờ những công lao đó, năm 411, khi Đỗ Viện chết, con là Đỗ Tuệ Độ được đảm nhiệm thay cha chức thứ sử Giao Châu. Đây cũng là thời gian diễn ra loạn lạc do các thái thú và trưởng lại ở nhiều địa phương không theo nhà Tấn, nổi lên cát cứ. Cuộc nổi dậy của Lư Tuần đã tác động trực tiếp đến Giao Châu. Tuệ Độ đã dẹp yên và còn nhiều lần đẩy lui quân Lâm Ấp đánh ra Giao Châu.
Vùng lưu vực sông Đáy từng có tên là Đỗ Động giang, nơi sứ quân Đỗ Cảnh Thạc nổi lên hồi thế kỷ 10, từng được ghi danh một trong 12 sứ quân. Trước đó, Đỗ Anh Sách vốn là một thổ tù cai quản Trường Châu được nhà Đường cho làm đến chức Đô úy cai quản quân đội của An Nam đô hộ phủ. Đỗ Anh Hàn tham gia khởi nghĩa Phùng Hưng cũng làm quan trong Đô hộ phủ. Cuối cùng mất ở đất Giao Châu. Dòng họ Đỗ đến thời nhà Đường đã rõ là một dòng họ Việt bao trùm cả một vùng hữu ngạn sông Hồng. Mà khu đô thị Ciputra vốn nằm trong vùng thượng nguồn của sông Nhuệ và sông Tô thuộc hệ thống các nhánh hữu ngạn sông Hồng, nơi mà cho đến cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, dòng họ Đỗ vẫn là một trong những dòng họ lớn vào loại nhất trong vùng.
Giải mã chữ họ "Đỗ"
Các nhà khoa học cho rằng ngôi mộ ở xã Tân Hòa, huyện Hoài Đức có nhắc đến việc người chết trong mộ là người họ Đỗ đã có công dẹp Lư Tuần với minh chứng là ba viên gạch ghi minh văn trong mộ này cũng đề cập đến việc người chết chôn trong mộ đã đánh dẹp Lư Tuần vào khoảng những năm 410, 411. Theo GS Hà Văn Tấn, có thể là Đỗ Quý Dân, người tham gia đánh Lư Tuần. Chữ "Đỗ" in trên gạch mộ này có nửa bên bộ "thổ" bị mất nét mà theo TS. Nguyễn Việt, đọc là Đỗ mới đúng. Trong ngôi mộ lớn ở Ciputra có một số viên gạch in nổi hình một chữ Hán: bên phải là bộ "Thổ", bên trái là bộ "Mộc". Chữ Hán không có chữ này, để in ra chữ đó người thợ phải có một bản khắc gỗ lõm. Và chính ở trên bản khắc lõm đó người ta dễ dàng nhận ra chữ "Đỗ". Theo táng tục xưa, ít ra thấy từ thời Đông Hán, gạch hoặc đá xây mộ cho người chết thuộc hàng quý tộc thường có ghi tên họ hoặc chức danh của những người cúng viếng. Đồng tình với quan điểm này, PGS Nguyễn Lân Cường cũng khẳng định rằng đây là chữ Đỗ, ông cũng nghiêng về ý kiến đây là họ của người nằm trong mộ vì rằng bạn ông là nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành đã tìm thấy một mộ thời Đông Hán ở Hải Dương có những viên gạch xây mộ có chữ Hoàng trùng với tên của chủ nhân ngôi mộ, vì tìm thấy bia của ngôi mộ cổ này với niên đại cụ thể là Vĩnh Tiến Ngũ niên (130 sau Công nguyên). Như vậy có thể thấy người chết trong mộ có thể là người thuộc dòng họ Đỗ hay chí ít cũng liên quan đến dòng họ nổi danh này.
Giải thích tại sao chữ nổi trên gạch lại là chữ họ "Đỗ" in ngược, TS Nguyễn Việt cho rằng, liên quan đến hai vấn đề: Thứ nhất là kỹ thuật in khắc âm bản trước khi dùng để in dập vào gạch. Đây là phương pháp tạo hoa văn trên gạch rất quen thuộc vào đời Hán và kéo dài mãi đến tận thời Đường và thời Lý ở nước ta. Để có những hoa văn nổi trên gờ viên gạch, người thợ xưa dùng các bản in bằng gỗ hay đất nung. Khi khắc chữ, nhiều thợ đã không quen khắc ngược nên đã khắc chữ xuôi trên bàn dập, dẫn đến có chữ ngược trên gạch. Đây là điều khá bình thường đương thời, bởi rất hiếm khi người thợ thủ công xưa biết chữ. Hiện tượng này còn kéo dài đến sau này cả trên nghề làm dấu phong nê lẫn dấu in trên gốm sứ. Thứ hai có thể liên quan đến quan niệm âm dương dưới mồ. Chữ "Đỗ" in ngược trên gạch xây mộ phản ánh tư duy cõi âm đối ngược với dương gian.
(còn nữa)
Xuân Thanh
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại