Nhiều điểm chưa sáng tỏ trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênBị cáo Nhã thời điểm được tại ngoại. |
Cần xác định rõ trả tiền trước khi gửi đơn tố cáo
Theo nội dung vụ án, năm 2006, bị cáo Nhã là nhân viên phòng thông tin Bộ tham mưu quân khu 3, Bộ Quốc phòng. Do có quen biết, bà Nguyễn Thị Phúc (quận Hồng Bàng, Hải Phòng) nhờ Nhã đưa anh Phạm Hữu Chiến (con nuôi bà Phúc) đi xuất khẩu lao động. Ông Phạm Hữu Hội (bố đẻ anh Chiến) đưa Nhã 20 triệu đồng để học chứng chỉ nghề và học tiếng Hàn Quốc.
Cuối năm 2006, ông Hội đưa Nhã 3.000 USD để làm thủ tục cho con trai đi xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, do Lê Thị Tiến là người cầm tiền cuối cùng bị bắt nên Nhã đã nói cho bà Phúc, ông Hội, anh Chiến biết là không đi xuất khẩu lao động theo đường dây của Tiến được. Ngày 10/4/2007, ông Hội yêu cầu Nhã viết giấy biên nhận vay tiền 3.000 USD.
Tháng 7/2007, Nhã bảo ông Hội lo thêm 3.000 USD để làm thủ tục cho anh Chiến đi xuất khẩu lao động, nếu sau 3-5 ngày anh Chiến không được ký hợp đồng và học định hướng, Nhã cam kết sẽ trả lại toàn bộ số tiền đã nhận. Do tin tưởng, ông Hội giao tiếp 3.000 USD cho Nhã. Mặc dù vậy, anh Chiến vẫn không được đi xuất khẩu lao động nên ông Hội tìm Nhã đòi tiền đồng thời làm đơn tố giác Nhã.
Tại phiên tòa, qua lời khai của bị cáo, người làm chứng và phần hỏi của VKS, luật sư xác định, bà Nguyễn Thị Phúc nhận 3.000 USD và 20 triệu của ông Hội, bị cáo Nhã chỉ nhận 3.000 USD của ông Hội. Tuy nhiên, theo thỏa thuận nếu Nhã không đưa được anh Chiến đi xuất khẩu lao động thì sẽ phải trả toàn bộ số tiền là 6.000 USD và 20 triệu nên mới có việc Nhã viết giấy biên nhận đã nhận 6.000 USD và 20 triệu của ông Hội vào ngày 11/7/2007.
“Thời điểm đó môi giới xuất khẩu lao động ăn % hoa hồng thì pháp luật không cấm. Đơn tố cáo bị cáo Nhã của ông Hội là 6.000 USD và 20 triệu nhưng cơ quan điều tra xác định bị cáo Nhã chỉ nhận 3.000 USD và truy tố về hành vi đó”, đại diện VKSND tỉnh Hải Dương nhấn mạnh.
Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Phúc xác định nhận tiền của Nhã để trả Phạm Thị Toan (vợ ông Hội) là 1.500 USD và 90 triệu đồng vào nhiều lần và có giấy nhận tiền vào cuối năm 2007. Bà Toan xác nhận việc này.
Ngày 26/10/2007, bị cáo Nhã đã trả lại cho anh Phạm Hữu Chiến (con ông Hội) 1.000 USD và trong năm 2007, Nhã đã trả ông Hội 40 triệu đồng. Tháng 12/2007, Nhã có quyết định ra quân. Ngày 14/7/2008, ông Hội có đơn tố giác Nhã ra cơ quan công an TP Hải Dương về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
"Ông Hội, bà Phúc biết Nhã chỉ là cầu nối, không trực tiếp, không có chức năng xuất khẩu lao động nhưng có mối quan hệ quen biết và đã từng giúp được 2 trường hợp đi xuất khẩu lao động vào năm 2005. Do đó mới chuyển 8 hồ sơ (trong đó có Chiến) cho Nhã để nhờ đưa người đi xuất khẩu lao động. Để đảm bảo cho các hồ sơ này, Nhã đã ứng trước số tiền là 53.000 USD cho Tiến nhưng không may Tiến lại bị bắt trong vụ án khác.
Nhã đã thông tin lại cho bà Phúc, ông Hội biết và hai người này vẫn nhờ Nhã tìm mối khác để đưa Chiến đi. Do vậy, việc Nhã nhận tiền của ông Hội sau khi Tiến bị bắt cũng chưa đủ số tiền Nhã đã ứng trước đó. Đáng nói, khi không đưa Chiến đi xuất khẩu lao động được, Nhã và bà Phúc đã trả ông Hội tiền nhưng ông Hội sau đó vẫn gửi đơn tố cáo Nhã vào năm 2008 vì không biết vợ và con trai đã nhận hết tiền trước 30/12/2007 (Âm lịch) từ bà Nhã.
"Việc này đã được làm sáng tỏ vào năm 2010 và gia đình ông Hội đã xin lỗi bị cáo Nhã (được ghi nhận trong biên bản lấy lời khai tại cơ quan điều tra). Như vậy, hành vi của bị cáo Nhã không gian dối và bị cáo không chiếm đoạt tiền của ông Hội”, luật sư Hoàng Thị Ngoãn nêu quan điểm.
Có lệnh truy nã nhưng vẫn được cấp chứng minh thư Nhân dân?
Tại phiên tòa, bị cáo Nhã khai, năm 2010, sau khi gia đình ông Hội xin lỗi bị cáo tại cơ quan điều tra thì bị cáo nghĩ mọi việc đã xong nên không hề biết sau đó bị cáo lại bị truy nã.
Luật sư trao đổi với bà Nhã ở phiên tòa sơ thẩm. |
Trả lời HĐXX về việc bị cáo Nhã có lệnh truy nã vào ngày 17/12/2010 nhưng vẫn được cấp chứng minh thư Nhân dân tại Thái Bình ngày 22/9/2011, điều tra viên Hà Sông Thương cho biết, việc ra quyết định truy nã bị can CQĐT phải ban hành và gửi các nơi theo luật quy định. Trong quyết định truy nã cũng ghi rõ bất kể ai cũng có thể bắt giữ người bị truy nã hoặc đưa đến cơ quan công an gần nhất.
Trả lời về việc bị cáo Nhã được Công an tỉnh Thái Bình cấp chứng minh thư Nhân dân ngày 22/9/2011, điều tra viên Thương cho hay, việc làm chứng minh thư Nhân dân là do bị cáo, nhiều trường hợp bị truy nã 30-40 năm họ vẫn làm được chứng minh thư (?).
Luật sư khẳng định vi phạm nghiêm trọng về tố tụng
Tranh luận tại phiên tòa, luật sư Hoàng Thị Ngoãn, Văn phòng luật sư An Việt, Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, vụ án có nhiều vi phạm nghiêm trọng về tố tụng như bị cáo Nhã cho rằng đơn tố cáo của ông Hội trong hồ sơ vụ án là giả mạo, đã bị đánh tráo, không phải đơn thư do CQCD thụ lý ban đầu.
Bị cáo Nhã đã được điều tra viên Hà Sông Thương cho xem Kết luận điều tra số 04 ngày 16/12/2010 của Cơ quan CSĐT Công an TP Hải Dương có nội dung “Hành vi của bị can Nhã không cấu thành tội phạm”. Tuy nhiên, bị cáo Nhã không được giữ bản kết luận điều tra nên cần thanh tra, kiểm tra xác minh làm rõ trong sổ lưu trữ kết luận điều tra.
Luật sư Ngoãn nêu quan điểm tại phiên tòa phúc thẩm. |
“Bị cáo Nhã khẳng định nhận được giấy triệu tập bị can vào 8h ngày 16/12/2010 tới CQCSĐT Công an thành phố Hải Dương nhận bản kết luận điều tra do ông Nguyễn Thái Điệp, Phó Thủ trưởng CQCSĐT ký, đóng dấu”, luật sư Ngoãn nhấn mạnh.
Theo luật sư Ngoãn, tài liệu trong hồ sơ thể hiện Thủ trưởng CQCSĐT Nguyễn Trường Giang có ký 02 Quyết định uỷ nhiệm cho Phó thủ trưởng Nguyễn Thái Điệp gồm QĐ 1037/ QĐ-UN ngày 12/09/2008 thời gian uỷ nhiệm 15/09/2008 đến 30/11/2008 và QĐ 473/ QĐ - UN ngày 01/12/2008 thời gian uỷ nhiệm từ 01/12/2008 đến 31/12/2008.
Ngoài thời gian ông Điệp được ông Giang uỷ nhiệm (15/09/2008-30/12/2008) thì không có tài liệu nào phân công ông Điệp phụ trách vụ án. Theo Quy định tại Điều 34 BLTTHS thì ông Điệp chỉ được quyền thay ông Giang thực hiện nhiệm vụ trong thời gian uỷ nhiệm; hết thời gian uỷ nhiệm thì ông Điệp chỉ có quyền và nghĩa vụ quy định tại Khoản 2 Điều 34 khi được Phân công điều tra (Quyết định phân công của Thủ trưởng – ông Giang).
Như vậy, kể từ ngày 01/01/2009, theo tài liệu hồ sơ vụ án thì ông Điệp không có nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 34 BLTTHS. Do đó, 02 Quyết định truy nã số 05/QĐ ngày 09/01/2009 và số 04/QĐ ngày 17/12/2010 và các quyết định tố tụng khác là không có giá trị pháp lý. Các Quyết định này thực sự được Viện kiểm sát nhân dân TP Hải Dương kiểm sát hay không?
Nếu có kiểm sát, thì tại sao hàng loạt các Quyết định tố tụng trái pháp luật được ban hành và ký bởi người không có thẩm quyền ?). Nhiều Quyết định tố tụng của Viện kiểm sát cũng được ban hành bởi người không có thẩm quyền (Phó viện trưởng ký không có Quyết định phân công của Viện trưởng theo quy định tại Điều 36 BLTHS).
Bên cạnh đó, tại bút lục 432, bản photo sổ theo dõi phân công điều tra thể hiện ghi chép ngày 16/08/2010 ghi chép khởi tố vụ án số 255 ngày 16/08/2010. Vậy, vụ án khởi tố năm 2010 hay năm 2008.
Luật sư Ngoãn cho rằng, chữ ký và chữ viết trong bản định thời hạn bảo quản hồ sơ ngày 07/02/2009 không phải của điều tra viên Thương bởi lẽ nhìn bằng mắt thường nhận thấy cách viết và nét chữ, chữ ký khác hoàn toàn so với các chữ viết, chữ ký của điều tra viên trong tài liệu hồ sơ vụ án. Đây là tài liệu được đóng dấu mật mà còn có dấu hiệu giả mạo thì các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án liệu ai dám chắc rằng không bị giả mạo.
Theo luật sư Ngoãn, trong hồ sơ vụ án thể hiện 2 quyết định tạm đình chỉ vụ án và đình chỉ bị can ngày 13/1/2009 lưu 2 bản nhưng ở 2 bản của hai quyết định này lại có nội dung ghi khác nhau. Từ những nội dung phân tích ở trên, luật sư Ngoãn nhận thấy cơ quan tố tụng thành phố Hải Dương đã vi phạm nghiêm trọng tố tụng, việc điều tra, truy tố, xét xử có dấu hiệu cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án của người tiến hành tố tụng.
“Đề nghị HĐXX xem xét kiến nghị, chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án tới Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao điều tra, xác minh làm rõ các vi phạm của một số cán bộ cơ quan tố tụng TP Hải Dương có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án nêu trên đảm bảo tính khách quan, nghiêm minh của pháp luật”, luật sư Ngoãn nhấn mạnh tại phiên tòa.
Tranh luận tại phiên tòa, kiểm sát viên giữ quyền công tố thừa nhận một số thiếu sót trong hồ sơ vụ án như thiếu 2 công văn chuyển đến do trách nhiệm của điều tra viên. Việc đánh tráo đơn ban đầu của ông Hội hay không thì không xác định được.
“Có 2 quyết định ủy nhiệm thời gian từ 15/09/2008-31/12/2008 trong hồ sơ của ông Nguyễn Trường Giang, Thủ trưởng CQCSĐT cho ông Nguyễn Thái Điệp, Phó thủ trưởng là chính xác. Hồ sơ thể hiện không có quyết định ủy nhiệm năm 2009 và 2010 là chính xác, không còn bàn cãi gì. Thời gian này ủy nhiệm theo thời gian nên điều tra viên phải thu thập vào hồ sơ nên trách nhiệm này của điều tra viên và một phần của viện kiểm sát”, vị đại diện viện kiểm sát nêu.
Theo vị đại diện viện kiểm sát, thực tế trong hồ sơ không có phân công của Viện trưởng viện kiểm sát thành phố cho Phó viện trưởng nhưng Phó viện trưởng vẫn ký các văn bản tố tụng. Tuy nhiên, trong giai đoạn năm 2008 ngành kiểm sát thực hiện theo phương thức đầu năm công tác các đơn vị đều có văn bản phân công cho các Phó viện trưởng để thực hiện các chức năng nhiệm vụ trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát theo mảng phụ trách.
“Thụ lý giải quyết đơn tố giác của ông Hội không có quyết định phân công Phó thủ trưởng, điều tra viên, Phó viện trưởng, kiểm sát viên là chính xác, không phải bàn cãi gì nhưng trong giai đoạn đấy, thực hiện theo luật cũ tôi làm cũng không có quyết định phân công, mỗi nơi áp dụng một khác, nơi áp dụng phân công, nơi không áp dụng”, kiểm sát viên nhấn mạnh.
Nói lời sau cùng tại phiên tòa, bị cáo Nhã đề nghị làm rõ số tiền bị cáo còn nợ ông Hội sau khi bị cáo và bà Phúc đã trả ông Hội. Bị cáo đã trả ông Hội trước khi ông gửi đơn tố cáo, mong HĐXX xem xét. HĐXX nghị án kéo dài và sẽ tuyên án vào 14h ngày 11/7/2023.
Bản án sơ thẩm, TAND TP Hải Dương tuyên bị cáo Nhã 27 tháng tù giam về tội danh trên. |
Lấy chồng và định cư tại nước ngoài, người phụ nữ Việt đến Cơ quan Công an làm điều bất ngờ Người phụ nữ ngoại 70, lấy chồng và sinh sống tại Trung Quốc đã đến Công an huyện Thanh Hà đầu thú, khai nhận toàn ... |
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại