Chiếm đoạt tiền chuyển khoản nhầm có bị xử lý hình sự?
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênBốn bị can trong vụ án chiếm đoạt tiền chuyển khoản nhầm |
CA TP Hải Phòng cho biết, CQ CSĐT đã khởi tố, bắt tạm giam 4 bị can để điều tra về tội “chiếm giữ trái phép tài sản”, gồm: Phạm Văn Mạnh, SN 1991, ở tổ 11 và Nguyễn Hồng Phong, SN 1979, ở tổ 10, cùng trú phường Bắc Sơn, quận Kiến An; Vương Hoàng Trung, SN 1994, ở xã Mỹ Đức và Nguyễn Thị Hương, SN 2001, ở xã Tân Viên, cùng huyện An Lão, TP Hải Phòng.
Theo điều tra, bị can Phạm Văn Mạnh sinh sống tại quận Kiến An nhưng làm lao động tự do trên địa bàn xã Tân Viên, huyện An Lão. Tại đây, Mạnh thường lui đến quán tạp hóa của chị Đ.T.H, SN 1976 ở thôn Đại Điền nhờ chị này chuyển hộ tiền vào tài khoản cho mình. Chính vì thế, trong điện thoại của chị H có lưu số tài khoản của Mạnh mở tại ngân hàng.
Lúc 17h15 ngày 24/9, chị H chuyển 500 triệu đồng cho người bà con. Do thao tác nhầm trên ứng dụng, chị H chuyển nhầm số tiền này đến tài khoản của Mạnh.
Sau khi phát hiện chuyển tiền nhầm vào số tài khoản của Mạnh, chị H đã báo ngân hàng xin trợ giúp. Theo hướng dẫn của ngân hàng, chị H tiếp tục chuyển khoản số tiền 10.000 đồng đến tài khoản của Mạnh kèm nội dung thông báo việc chuyển nhầm tiền, đề nghị M. liên lạc để xử lý. Tuy nhiên, Mạnh bàn với Nguyễn Hồng Phong và Vương Hoàng Trung tìm cách chiếm đoạt số tiền chuyển nhầm của chị H. Theo lời Trung, Mạnh đã chuyển hết số tiền trên đi các tài khoản khác nhau.
Mạnh gọi điện cho Hương thông báo việc có người chuyển nhầm số tiền trên vào tài khoản của mình, đồng thời chuyển 180 triệu đồng cho Hương để quản lý giúp. Sau khi nhiều lần liên lạc với Mạnh để mong muốn được hoàn trả tiền không thành, chị H trình báo với CQCA.
Hiện, CQ CSĐT CA TP Hải Phòng đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với đối với 4 đối tượng trên về tội "Chiếm giữ trái phép tài sản", quy định tại khoản 2, Điều 176 BLHS.
Dưới góc độ pháp lý, luật sư Đinh Thị Nguyên, Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, có thể hiểu, chiếm giữ trái phép tài sản là việc cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không tiến hành giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản không may bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được sau khi có yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định.
Như vậy, theo cách hiểu trên, người thực hiện hành vi vi phạm có được tài sản là do bị giao nhầm, do mình tìm được hoặc nhặt được. Khi chủ sở hữu, người quản lý tài sản yêu cầu được nhận lại tài sản nhưng người này cố tình không trả lại sẽ được xác định là hành vi chiếm giữ trái phép tài sản.
Theo luật sư Nguyên, người có hành vi trên sẽ bị xử lý hình sự về tội "Chiếm giữ trái phép tài sản" theo quy định tại Điều 176 BLHS 2015. Thời điểm được xem là hoàn thành tội phạm được bắt đầu tính từ lúc sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản nhưng vẫn cố tình không trả lại.
Thời điểm này có thể là ngay sau khi có yêu cầu trả lại tài sản hoặc ngay sau khi thời hạn người yêu cầu đưa ra chính thức kết thúc. Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội này với lỗi cố ý. Người phạm tội biết tài sản đó không thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình, biết mình có nghĩa vụ phải trả lại cho chủ tài sản hoặc phải giao nộp cho cơ quan Nhà nước có trách nhiệm.
Về hình phạt, theo vị luật gia, Điều 176 quy định, người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10 đến dưới 200 triệu đồng sẽ bị phạt tiền từ 10 đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Còn nếu chiếm giữ tài sản trị giá 200 triệu đồng trở lên sẽ bị phạt tù từ 1 đến 5 năm. Như vậy, với số tiền 500 triệu đồng, nếu bị chứng minh có tội, những đối tượng trên có thể đối mặt khung hình phạt từ 1đến 5 năm tù.
Điều 579 của Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này”. |
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại