Thứ năm 18/04/2024 14:15
Án lệ số 52/2021/AL

Bài 1: Từ việc tranh chấp về thừa kế tài sản

Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên
Hội đồng Thẩm phán TAND TC vừa thông qua Án lệ số 52/2021/AL về hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất khi chưa đăng ký quyền sử dụng đất.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Không có di chúc

Theo đó, nguồn án lệ lấy từ Quyết định giám đốc thẩm số 231/2020/DS-GĐT ngày 30-9-2020 của TAND cấp cao tại TP HCM về vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp về yêu cầu tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu” giữa nguyên đơn là bà Tống Thị U với bị đơn là ông Tống Thanh V; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 46 người.

Cụ thể, bà Tống Thị U, nguyên đơn, trình bày, cha, mẹ bà (cụ Tống Văn T, chết năm 2007; cụ Nguyễn Thị C1, chết năm 2011) có 11 người con. Năm 2007, cụ T chết, không có di chúc. Ngày 16-11-2009, cụ C1 và những người con thỏa thuận lập văn bản phân chia di sản thừa kế của cụ T. Theo sự thỏa thuận, cụ C1 được phân chia nhiều thửa đất và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó có thửa số 257, tờ bản đồ số 16, diện tích đất 4.149 m2 và các thửa số 6, 18, 31, 32, 51 và 52, tờ bản đồ số 15, diện tích 12.883 m2 cùng tọa lạc tại khu phố X, phường Y, thị xã Z, tỉnh Bình Dương.

Lợi dụng việc cụ C1 già yếu, bệnh tật, không còn minh mẫn và không biết chữ, ông Tống Thanh V đã lừa gạt, để cụ C1 ký vào duy nhất trang 3 của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 14-6-2010.

Cụ C1 không có mặt tại trụ sở của UBND nhưng Chủ tịch UBND phường vẫn chứng thực vào hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Sự việc chứng thực nói trên đã vi phạm quy định về công chứng, chứng thực. Từ hợp đồng tặng cho xác lập trái pháp luật, ông V đã được cấp “sổ đỏ” với diện tích đất 12.883 m2. Hiện nay, thửa đất số 257 có diện tích 4.149 m2 , vẫn do cụ C1 đứng tên là chủ sử dụng.

Bà U khởi kiện, yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có số chứng thực 111, quyển 1/2010TP/CC-SCT/HĐGD do UBND chứng thực vào ngày 14-6-2010 là vô hiệu, xác định phần đất có diện tích 9.839,9 m2 (đã trừ phần diện tích của ông Tống Văn L1 và Tống Văn P1 đang sử dụng) thuộc các thửa 6, 18, 31, 32, 51 và 52 tờ bản đồ số 15 và phần đất có diện tích 3.786,1 m2 thuộc thửa số 257, tờ bản đồ số 16 tại phường Y, thị xã Z là di sản do cụ C1 để lại;

Phân chia di sản của cụ C1 để lại nói trên theo quy định của pháp luật; bà U yêu cầu được nhận thừa kế bằng hiện vật. Bị đơn, ông V, trình bày ý kiến như sau: Cụ C1 đã tặng cho ông V tất cả những phần đất mà bà U nêu trên; việc tặng cho được thực hiện bằng hợp đồng có chứng thực hợp pháp và hiện nay, ông V đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 12.883 m2 .

Sau khi được tặng cho đất, ông V đã phân chia lại cho các anh, chị, em khác trong gia đình, mỗi người được một phần và đã chuyển nhượng cho một số người bằng giấy viết tay. Hiện, ông Tống Văn L1 (ông L1) sử dụng 1.597 m2 đất, ông Tống Văn P1 (ông P1) sử dụng 2.418 m2 đất trong tổng số 12.883 m2 đất mà ông V đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng; ông V đồng ý để ông L1 và ông 3 P1 tiếp tục sử dụng diện tích đất này.

Đối với phần đất thuộc thửa 257, sau khi hợp đồng tặng cho được chứng thực, ông V đã nộp hồ sơ đăng ký sang tên quyền sử dụng đất nhưng cho đến nay, ông V chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lý do là vì: do bản đồ tổng thể khu vực này bị sai sót, UBND địa phương phải chỉnh sửa và tiếp sau đó, phát sinh tranh chấp quyền sử dụng đất. Những phần đất nói trên đều do ông V sử dụng từ khi cụ C1 còn sống cho đến nay.

Theo ông V, quyền sử dụng đất diện tích 3.786,1 m2 thuộc thửa số 257, tờ bản đồ số 16 tại phường Y không còn là di sản của cụ C1 vì đã chuyển nhượng cho đương sự. Vì vậy, ông V không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà U.

Lập thủ tục chứng thực hợp đồng tặng cho

Người đại diện hợp pháp của UBND phường Y, thị xã Z, tỉnh Bình Dương trình bày, theo yêu cầu của cụ Nguyễn Thị C1, công chức Tư pháp – hộ tịch của UBND thị trấn (nay là phường) đã đến nhà cụ C1 để giải thích và soạn thảo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo mẫu quy định; công chức Tư pháp – hộ tịch có đọc lại toàn bộ nội dung hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho các bên cùng nghe.

Sau đó, cụ C1 và ông V ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng trước mặt công chức Tư pháp – hộ tịch. Tại thời điểm kí tên, điểm chỉ, cụ C1 và ông V hoàn toàn minh mẫn và tự nguyện, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Sau khi các bên ký tên và điểm chỉ, UBND thị trấn (nay là phường) đã lập thủ tục chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, số chứng thực là 111 và 112, quyển sổ 1.2010/TP/CC-SCT/HĐGD cùng ngày 14-6-2010 theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2019/DS-ST ngày 9-5-2019, TAND thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tống Thị U đối với bị đơn ông Tống Thanh V về tranh chấp về thừa kế tài sản.

Chia di sản của cụ Nguyễn Thị C1 là quyền sử dụng diện tích đất theo đo đạc thực tế 3.786,1 m2 thuộc thửa số 257, tờ bản đồ số 16: Bà Tống Thị U được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích đất 344,1 m2. Các thừa kế của ông Tống Văn H6 được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích đất 344,1 m2. Bà Tống Thị Thu T1 được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích đất 344,1 m2. Ông Tống Văn P1 được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích đất 344,1 m2. Ông Tống Hữu H1 được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích đất 344,1 m2.

Ông Tống Thanh V, bà Tống Thị N1, bà Tống Thị N2, bà Tống Thị N3, ông Tống Phước T2 và bà Tống Thị Kim A mỗi người được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích đất 344,1 m2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Tống Thị N1, bà Tống Thị N2, bà Tống Thị N3, ông Tống Phước T2 và bà Tống Thị Kim A về việc giao kỷ phần được hưởng cho ông Tống Thanh V.

Như vậy, kỷ phần ông V được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất diện tích đất 2.065,6 m2 . Đối với cây trồng có trên đất của ai thì người đó quản lý, sử dụng.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tống Thị U về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, số chứng thực là 111, quyển sổ 1/2010/TP/CC-SCT/HĐGD do UBND phường chứng thực ngày 14-6-2010 vô hiệu; xác định diện tích 9.839,9 m2 thuộc các thửa 6, 18, 31, 32, 51 và 52, tờ bản đồ số 15 theo “sổ đỏ” cấp ngày 16-8-2010 cho ông Tống Thanh V là di sản của cụ Nguyễn Thị C1 và chia di sản do cụ Nguyễn Thị C1 là quyền sử dụng diện tích đất 9.839,9m2, thuộc các thửa 6, 18, 31, 32, 51 và 52 tờ bản đồ số 15 tại thị xã Z, tỉnh Bình Dương.

Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tống Thị U đối với phần diện tích 1.597 m2 thuộc thửa 18 và diện tích 2.418 m2 thuộc thửa số 6 tại phường Y, thị xã Z, tỉnh Bình Dương. Ngoài ra, Tòa án còn tuyên về án phí, chi phí đo đạc, định giá, giám định, trách nhiệm chậm thi hành và quyền kháng cáo của các đương sự.

(Còn nữa)

Bảo An
Pháp luật và Xã hội

Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại

Có thể bạn quan tâm

Tin mới hơn
Tin đã đăng
Xem thêm»

Mời bạn quét mã QR để theo dõi Pháp luật và Xã hội trên nền tảng Zalo

Mời bạn quét mã QR để theo dõi phapluatxahoi.kinhtedothi.vn
X
Phiên bản di động