Luật Đất đai (sửa đổi): Cần xây dựng lại khái niệm hộ gia đình sử dụng đất
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênCần xây dựng lại khái niệm hộ gia đình sử dụng đất trong Luật Đất đai (sửa đổi). |
Bỏ đối tượng là hộ gia đình sử dụng đất
Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được lấy ý kiến Nhân dân từ ngày 3/1 đến 15/3/2023. Theo đó, một trong những nội dung được quan tâm đang lấy ý kiến là việc bỏ đối tượng là hộ gia đình sử dụng đất.
Cụ thể, theo quy định hiện hành tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, khái niệm này đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 5 dự thảo: "Hộ gia đình sử dụng đất gồm những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, có quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (sau đây gọi là hộ gia đình)".
Theo quy định này, những người trong hộ gia đình sử dụng đất không còn phải sống chung với nhau nữa mà chỉ cần đáp ứng điều kiện: Có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống; có quyền sử dụng đất trước ngày luật có hiệu lực.
Ngoài ra, khoản 5 Điều 143 dự thảo cũng đã đề xuất sổ đỏ hộ gia đình sẽ ghi tên tất cả các thành viên của hộ gia đình sử dụng đất đó.
Cụ thể, trường hợp thửa đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình thì cấp một Giấy chứng nhận ghi đầy đủ tên thành viên trên Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện. Đối với trường hợp giấy chứng nhận đã cấp cho đại diện hộ gia đình trước ngày luật này có hiệu lực thi hành, nếu các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu thì được cấp đổi Giấy chứng nhận và ghi đầy đủ tên các thành viên có chung quyền sử dụng đất.
Trường hợp các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu thì cấp một Giấy chứng nhận ghi tên đại diện hộ gia đình trên Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện hộ gia đình.
Việc xác định các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình để ghi tên trên Giấy chứng nhận do các thành viên này tự thỏa thuận và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Cần xây dựng lại khái niệm hộ gia đình sử dụng đất
Việc nội dung sửa đổi này, nhìn từ góc độ công tác thi hành án dân sự, các chuyên gia cho rằng, sửa đổi là cần thiết. Bởi lẽ, Luật Đất đai 2013 khi quy định về “hộ gia đình” thực tế đã gặp rất nhiều vướng mắc.
Theo đó, Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định sở hữu chung của các thành viên trong gia đình như sau: Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên góp và cùng nhau tạo lập nên.
Tuy nhiên, tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai lại quy định “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.
Từ hai khái niệm của hai bộ Luật trên dẫn đến việc xác định thành viên hộ gia đình cũng khác nhau. Trong đó, theo Bộ luật Dân sự thì tài sản của hộ gia đình phải là tài sản do các thành viên cùng đóng góp (tức là hướng tới xác định nguồn gốc tạo lập tài sản), còn Luật Đất đai lại quy định về mối quan hệ của các thành viên hộ gia đình nên khi chỉ một trong các thành viên phải thi hành án thì rất khó xử lý quyền sử dụng đất ghi “Hộ gia đình”, mặc dù có thể, nguồn gốc tạo lập quyền sử dụng đất đó chỉ do người phải thi hành án tạo lập nên.
Mặt khác, cùng vấn đề này, trên thực tế nhiều trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng nhưng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại ghi cấp cho “hộ gia đình” dẫn đến xử lý tài sản khó khăn. Nếu trong gia đình có bố, mẹ và con của người phải thi hành án cùng sinh sống thì rất khó để xác định phần quyền sở hữu tài sản, phân chia tài sản, xác định công sức đóng góp của mỗi thành viên hộ gia đình trong khối tài sản chung.
Từ thực tế đó, việc cần làm rõ hoặc đồng nhất hoặc xác định lại “hộ gia đình” trong Luật đất đai (sửa đổi) là điều cần thiết.
Đánh giá đây là điểm rất mới so với quy định hiện hành, luật sư Bùi Quang Thu - Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng, Luật Đất đai 2013 cùng khái niệm “hộ gia đình” là một khái niệm rất mơ hồ gây ra những rắc rối không đáng có. Theo đó, quyền sở hữu, sử dụng đất chỉ ghi chung chung “hộ gia đình” nhưng bao nhiêu thành viên thuộc hộ thì không ai xác định được nên dẫn đến tranh chấp, nghi ngờ, mất rất nhiều thủ tục hành chính để đi điều tra, xác nhận.
“Đơn cử trường hợp vài anh em mua chung tài sản nhưng trong sổ đỏ lại chỉ ghi tên một người mà không xác định được tư cách gì để đại diện cho những người khác. Như vậy khi giao dịch, thế chấp, mua bán, chuyển nhượng do không xác định được nên khiến nhiều hồ sơ bế tắc” - luật sư Bùi Quang Thu phân tích.
Cũng theo luật sư Bùi Quang Thu, sở dĩ có rắc rối trên vì một người đại diện mang vai trò sở hữu chung chung, một tổ chức không có tư cách pháp nhân sở hữu tài sản nên mới dẫn đến nhiều vụ việc oan trái, rắc rối. Thực tế vì khái niệm mập mờ này mà nhiều vụ án bị vô hiệu hóa một cách ngang ngược...
Do đó, cần xây dựng lại khái niệm hộ gia đình sử dụng đất trong Luật Đất đai sửa đổi trên cơ sở làm rõ phạm vi và chủ thể có quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong trường hợp hộ gia đình có nhiều thành viên, thuộc nhiều thế hệ, có nhiều mối quan hệ đan xen như: Quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng… để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng đất là con dâu, là vợ, là cháu gái khi ở cùng với gia đình mà đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất…
Lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) từ ngày 3/1/2023 | |
Luật Đất đai (sửa đổi): Cần rõ hơn tiêu chí “tốt hơn nơi ở cũ” |
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại