Có phạm tội không khi mượn, rồi “cắm” điện thoại của bạn?
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênVào ngày 10/12 tới đây, TAND quận Hoàn Kiếm mở lại phiên tòa xét xử vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Thanh Tùng sinh năm 1985 (nguyên quán tại Nam Định).
Vụ án đã từng bị tòa trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, tại phiên tòa ngày 21/9/2014. Tuy nhiên, với nội dung bản kết luận điều tra bổ sung và cáo trạng mới đây nhất, luật sư bào chữa vẫn cho rằng, không có căn cứ buộc tội bị cáo.
Vậy lập luận của các bên ra sao?
Theo kết luận điều tra của Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàn Kiếm: Vào đêm ngày 28 rạng ngày 29/3, Nguyễn Thanh Tùng rủ chị Hà và các bạn chị Hà là Nguyễn Thúy Loan ( Tức Oanh) sinh năm 1994 trú tại ấp Tân Lòng A, Tân Bình, Phụng Hiệp, Hậu Giang và chị Lê Thị Ngân, sinh năm 1991, trú tại ấp Hoàn Thành, xã Hòa Hưng, Giồng Riềng, Kiên Giang lên quán lẩu tại số 24 phố Phùng Hưng (Q. Hoàn Kiếm) ăn đêm. Tùng và chị Hà, chị Lan đi taxi đến quán trước và ngồi ăn ở tầng 2, còn chị Ngân đến sau.
Trước khi đến quán ăn, chị Ngân có gọi điện cho chị Hà để hỏi địa chỉ quán. Do không biết đường, chị Hà đã đưa điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S bản 16Gb của mình cho Tùng để nhờ Tùng chỉ đường cho chị Ngân.
Sau khi được chị Hà đưa điện thoại, Tùng đã nói chuyện, mô tả đường cho chị Ngân. Tùng đi xuống tầng 1 để đón chị Ngân, sau đó bỏ đi, không quay trở lại chỗ chị Hà và bạn đang ăn nữa. Chị Hà thấy Tùng không quay trở lại đã nhiều lần gọi cho Tùng thì Tùng nói dối là đang bị Cảnh sát Cơ động bắt và nói sẽ quay lại sau.
Đến ngày 30/03/2014, Tùng đã đem chiếc điện thoại nói trên đến quán cầm đồ của Trần Việt Dũng (là bạn của Tùng) tại 193D Minh Khai cắm lấy 5 triệu đồng, nhưng ghi trong giấy cầm đồ là 7 triệu đồng.
Ngày 04/04/2014 Tùng nhờ 1 người xe ôm không rõ thân nhân mang giấy cầm đồ đến cho chị Hà và bảo chị Hà đến hiệu cầm đồ để chuộc điện thoại với giá 7 triệu đồng.
Căn cứ kết luận của Cơ quan công an, VKSND quận Hoàn Kiếm đã truy tố bị can Nguyễn Thanh Tùng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự….
Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày 21/9/2014, TAND quận Hoàn Kiếm đã tuyên trả hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung, vì có một số tình tiết quan trọng không thể làm rõ tại phiên tòa.
Về kết luận điều tra bổ sung và nội dung cáo trạng mới, trao đổi với phóng viên, Luật sư Đặng Văn Cường (VPLS Chính Pháp) thông tin: Hiện nay, CQĐT đã hoàn tất thủ tục điều tra bổ sung, đã có kết luận và hồ sơ đã chuyển lại cho Tòa án để xem xét giải quyết.
“Tôi cũng đã tiếp cận, nắm bắt đầy đủ thông tin của hồ sơ mà CQĐT mới thu thập. Phải nói rằng, đến nay trong hồ sơ vụ án này không có điểm gì mới, ngoài việc CQĐT thừa nhận chưa có giấy triệu tập bị cáo…”, luật sư Cường nói.
Luật sư Đặng Văn Cường
PV: Với tư cách là người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh Tùng trong thời gian điều tra xét xử vụ án, quan điểm của ông về vụ án này như thế nào?
Luật sư Đặng Văn Cường: Tại phiên tòa sơ thẩm tôi đã trình bày quan điểm phản bác lại cáo trạng của Viện kiểm sát khi truy tố bị can Nguyễn Thanh Tùng theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ, bởi các lý do sau:
Thứ nhất: Bị cáo và bị hại là chỗ quen biết thân thiết , từng chụp ảnh chung và đi ăn uống cùng nhau nhiều lần. Khi xảy ra sự việc bị cáo đã thương lượng với bị hại.
“…không còn cách nào khác anh mới làm như thế với em. Cuối tháng này anh gửi em 3 triệu” – trích theo nội dung tin nhắn tại Biên bản kiểm tra điện thoại ngày 04/04/2014 của CQĐT. Điều này chứng tỏ bị cáo không có ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của bà Hà.
Thứ hai: Tang vật đã được ông Dũng chủ tiệm cầm đồ giao nộp lại cho CQĐT và bà Hà đã nhận lại chiếc điện thoại của mình. Bà Hà cũng có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Do vậy thiệt hại về tài sản là không có.
Thứ ba: Chủ tiệm cầm đồ là ông Dũng , không yêu cầu cơ quan điều tra thu hồi số tiền 5 triệu do ông Dũng và bị cáo Tùng đã tự thỏa thuận được với nhau, vì vậy không có phát sinh tranh chấp về kinh tế.
Thứ tư: Bị cáo không hề có ý định bỏ trốn thể hiện tại bút lục số 38, rất nhiều lần bị cáo và chị Hà nhắn tin cho nhau, thể hiện rằng bị cáo mượn điện thoại và sẽ trả tiền dần cho chị Hà. Bị cáo có địa chỉ tạm trú, thường trú, nơi làm việc và bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú tại Công an quận Hoàn Kiếm vào ngày 23/04/2014 khi CQĐT chưa có bất cứ một giấy triệu tập nào. Vì vậy, ở đây không có yếu tố bỏ trốn.
Tôi cho rằng, bản chất sự việc ở đây là bà Hà đưa điện thoại cho bị cáo mượn là tự nguyện, đây chỉ là quan hệ dân sự, tài sản không hề bị chiếm đoạt. Bị cáo Tùng đã làm sai khi sử dụng tài sản của người khác mà chưa được sự đồng ý của họ, nhưng hành vi nếu chỉ vậy thì chưa phải là phạm pháp hình sự. Bị cáo đã hướng dẫn chị Hà đến cửa hàng cầm đồ để chuộc lại tài sản và hứa trả trước một phần tiền là 3 triệu đồng cho bà Hà,… Vì vậy, mục đích chiếm đoạt, hành vi chiếm đoạt không thể hiện rõ và không có yếu tố gian dối, nên không đủ căn cứ để truy tố bị cáo về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
PV: Vậy theo luật sư, dấu hiệu cần thiết để nhận biết hành vi phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 140 BLHS là gì?
LS Đặng Văn Cường: Tùy vụ việc cụ thể. Ở vụ việc này, thì sự việc giữa hai bên ban đầu là quan hệ dân sự hợp pháp (vay mượn, gửi giữ tài sản). Người nhận tài sản của người khác chỉ phạm tội, hay nói cách khác là chuyển hóa từ dân sự sang hình sự khi người nhận tài sản gian dối, bỏ trốn hoặc dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản, thể hiện rõ mục đích chiếm đoạt tài sản.
Với tư cánh là luật sư bào chữa cùng với các tài liệu chứng cứ hiện có, tôi vẫn giữ nguyên quan điểm : Không có căn cứ chứng minh bị cáo có hành vi gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản của chị Hà như bản kết luận điều tra bổ sung của CQĐT mới đây về vụ án này.
Báo điện tử PL&XH sẽ thông tin về phiên xử này.
Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (trích Bộ luật Hình sự)
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
T.A
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại






