Thứ tư 09/10/2024 19:33

Năng suất lao động Việt Nam có thấp so với khu vực?

Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên
Tại Diễn đàn “Nâng cao năng suất lao động (NSLĐ) Quốc gia năm 2024” do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức, TS. Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng, Ban Kinh tế Trung ương cho rằng, một trong những việc chúng ta cần làm để tăng NSLĐ trên góc nhìn vĩ mô thì cần phải đẩy nhanh phát triển nhiều hơn nữa hệ thống DN cao hơn mục tiêu 1,5 triệu DN vào năm 2025 - mục tiêu quan trọng để thúc đẩy NSLĐ.
Công nhân Công ty Vinacomin hăng say lao động sản xuất để đảm bảo tiến độ công việc.
Công nhân Công ty Vinacomin hăng say lao động sản xuất để đảm bảo tiến độ công việc. Ảnh: Hải Nguyễn

Bằng khoảng 30% NSLĐ trong các DN Singapore

TS. Nguyễn Tú Anh nhận định, NSLĐ Quốc gia là thước đo hoạt động kinh tế của một Quốc gia, tính toán so sánh lượng giá trị gia tăng được tạo ra tính trên một đầu vào lao động. Theo nghĩa đó NSLĐ được tính bằng GDP chia cho số lao động có việc làm trong năm. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) thì NSLĐ của Việt Nam năm 2022 tính bằng USD 2017 theo ngang giá sức mua PPP là 2.400 USD, chỉ bằng 11,4% so với Singapore, 35,4% so với Malaysia, 79% so với Indonesia…

Nếu nhìn con số này thì NSLĐ của chúng ta thấp, do cơ cấu nền kinh tế Việt Nam phần lớn lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và hộ gia đình, số lượng lao động làm việc trong khu vực DN chỉ chiếm 29,2% lao động có việc làm trong năm 2022. Mặc dù vậy số lượng lao động này lại tạo ra khoảng 60% GDP cho cả nền kinh tế (khu vực tư nhân tạo ra khoảng 10%, khu vực DN FDI tạo ra khoảng 20,14% và khu vực DN Nhà nước tạo ra khoảng 29% GDP). GDP của Việt Nam năm 2022 theo ngang giá sức mua PPP bằng đồng USD 2017 là 1.321.694,15 triệu USD.

Như vậy với việc tạo ra 60% GDP NSLĐ của các lao động trong DN Việt Nam sẽ tạo ra là 53.582 USD/lao động. Như vậy sẽ bằng 30% so với lao động của Singapore làm việc tại DN hoặc cơ quan Nhà nước. Với con số này thì NSLĐ của người lao động trong các DN Việt Nam sẽ bằng khoảng 30% NSLĐ của người lao động trong các DN Singapore. Mặc dù vậy, NSLĐ của Việt Nam khá là thấp.

Vì vậy, một trong những việc chúng ta cần làm để tăng NSLĐ trên góc nhìn vĩ mô thì cần phải đẩy nhanh phát triển nhiều hơn nữa hệ thống DN nhiều hơn mục tiêu 1,5 triệu DN vào năm 2025, mục tiêu quan trọng để thúc đẩy NSLĐ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn kỹ hơn, đó là NSLĐ của khu vực DN tư nhân của Việt Nam còn quá thấp. Các DN tư nhân tạo ra khoảng 59% việc làm trong khu vực DN nhưng chỉ đóng góp giá trị gia tăng bằng 1/6 của toàn bộ khu vực DN, nên NSLĐ trong khu vực DN tư nhân Việt Nam chỉ bằng 3,6% khu vực DN Nhà nước và 28,5% khu vực DN FDI (tính toán dựa trên số liệu GDP năm 2021 và tỉ lệ đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế năm 2021 không thay đổi đáng kể so với năm 2020).

Năng suất lao động Việt Nam có thấp so với khu vực?
Người lao động trong dây chuyền veston thuộc Tổng công ty May 10 hăng say lao động hưởng ứng thi đua tháng công nhân. Ảnh: May 10

Những giải pháp cần thực hiện

TS. Nguyễn Tú Anh kiến nghị, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận nguồn lực như đất đai, vốn, tri thức, lao động, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước để phát triển nhanh hơn số lượng DN mà tăng quy mô của DN. Phải thực hiện cho kỳ được mục tiêu 2 triệu DN đến năm 2030. Chỉ khi tỷ trọng lao động trong DN tăng lên thì NSLĐ mới tăng nhanh và bền vững vì các lý do: người lao động được chăm lo tốt hơn thông qua vai trò của các đoàn thể; người lao động cam kết lâu dài hơn, nên có động lực để nâng cao năng lực trình độ để tăng NSLĐ; DN có năng lực tốt hơn trong nâng cao trình độ quản lý, sản xuất, công nghệ để tăng NSLĐ.

Thứ hai, trọng tâm của chính sách kinh tế trong giai đoạn 2021-2030 nên tập trung vào ngành chế biến chế tạo vì đây là khu vực động lực thúc đẩy NSLĐ cả nền kinh tế. Chỉ khi NSLĐ của ngành chế biến chế tạo tăng lên thì mới có thu nhập tăng thêm để chi tiêu cho ngành dịch vụ qua đó làm tăng NSLĐ ngành dịch vụ, hay nói cách khác NSLĐ ngành dịch vụ là phái sinh theo sau ngành chế biến chế tạo. Thúc đẩy NSLĐ ngành chế biến chế tạo cùng với mở rộng quy mô của ngành sẽ là động lực chính thúc đẩy NSLĐ trong cả nền kinh tế.

Thứ ba thực hiện các giải pháp nâng cao NSLĐ nội ngành như: hỗ trợ hình thành nên các DN lớn, những sếu đầu đàn dựa trên tiềm lực hiện có của các DN hiện nay để dẫn dắt ngành phát triển theo một chuỗi cung ứng do DN Việt Nam làm chủ như ngành sản xuất ô tô, ngành điện tử, ngành công nghệ thông tin, ngân hàng, tài chính, chế biến nông lâm thủy sản, ngành thép… Đặc biệt chú trọng mở rộng quy mô DN tư nhân, cải thiện NSLĐ DN tư nhân chính sẽ là cú hích lớn cho DN cả nước; Thúc đẩy cụm liên kết ngành thông qua tích tụ các ngành gần nhau vào các KCN, KKT, hạn chế sự phân tán nhiều ngành khác nhau vào các KCN, KKT

Thứ tư, thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực có NSLĐ thấp sang khu vực có NSLĐ cao, từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức bằng các giải pháp: chăm lo tốt hơn cho cuộc sống người lao động bằng các chính sách nhà ở xã hội, hỗ trợ không phân biệt hộ khẩu cho con em công nhân lao động trong học tập, tiếp cận, dịch vụ y tế; Xử lý hài hòa vấn đề quan hệ lao động, đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động nhưng cũng đảm bảo lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư; Nâng cao nhận thức cho người lao động về sự cần thiết phải học nghề, học kỹ năng lao động để có đủ điều kiện dịch chuyển lao động.

Cuối cùng theo TS. Nguyễn Tú Anh cần thực hiện chính sách tiền lương hiệu quả, cùng với sự phát triển kinh tế cần điều chỉnh tăng lương tối thiểu hợp lý nhằm tạo sức ép DN đổi mới công nghệ, đồng thời người lao động có động lực nâng cao trình độ tay nghề (không nâng cao tay nghề có nguy cơ mất việc, thu nhập thấp). Trên thực tế nếu tiền lương được duy trì ở mức thấp sẽ tạo hiệu ứng ngược lại DN không có nhu cầu đổi mới công nghệ vì vẫn có thể khai thác tiền lương thấp với công nghệ cũ, người lao động không có động lực nâng cao tay nghề vì giá trị của việc nâng cao tay nghề không tương xứng. Tuy nhiên nếu tăng tiền lương tối thiểu quá nhanh có thể làm chùn ý nhà đầu tư. Do đó trong vấn đề cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ DN, công đoàn và cơ quan quản lý Nhà nước để tạo ra lợi ích chung.

Nghiên cứu bổ sung lao động xe công nghệ vào đối tượng đóng BHXH bắt buộc Nghiên cứu bổ sung lao động xe công nghệ vào đối tượng đóng BHXH bắt buộc
Cho vay tín dụng lãi suất ưu đãi với người lao động để hạn chế rút bảo hiểm xã hội 1 lần Cho vay tín dụng lãi suất ưu đãi với người lao động để hạn chế rút bảo hiểm xã hội 1 lần
Thái Phương
Pháp luật và Xã hội

Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại

Có thể bạn quan tâm

Tin mới hơn
Tin đã đăng
Xem thêm»

Mời bạn quét mã QR để theo dõi Pháp luật và Xã hội trên nền tảng Zalo

Mời bạn quét mã QR để theo dõi phapluatxahoi.kinhtedothi.vn
X
Phiên bản di động