Kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp mới 2013 (bản Hiến pháp được Quốc hội Việt Nam khoá XIII, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013) tái khẳng định, đề cao và quy định quyền con người, quyền công dân một cách đầy đủ, toàn diện và rõ ràng hơn. Hiến pháp 2013 có thể được coi là một bản hiến chương về quyền con người ở Việt Nam vì đã hàm chứa đầy đủ và toàn diện một hệ thống các quyền con người hiện đại, là một bước tiến đáng kể về tư duy Nhà nước pháp quyền và thể chế hóa quyền con người ở Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. |
Thứ nhất, đã bổ sung nhiều quyền mới mà Hiến pháp 1992 và các hiến pháp trước đó đều chưa quy định; mở rộng phạm vi bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trên cả mọi lĩnh vực từ dân sự, chính trị, kinh tế đến xã hội, văn hóa. Đó là quyền của công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác; quyền sống; quyền có nơi ở hợp pháp; quyền hưởng an sinh xã hội; quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền sống trong môi trường trong lành... Thứ hai, đã làm rõ hơn nội hàm của các điều về quyền con người trong Hiến pháp 1992 bằng cách quy định đầy đủ, chính xác hơn hoặc tách thành điều riêng. Đó là các quyền: Bình đẳng trước pháp luật; cấm tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình; bảo vệ đời tư và nơi ở; tiếp cận thông tin; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội; bình đẳng giới; bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân; tố tụng công bằng; sở hữu tư nhân; lao động, việc làm. Hiến pháp cũng có riêng một điều quy định bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, đặc biệt quyền tham gia của trẻ vào các vấn đề liên quan đến các em. Thứ ba, ở một số chương khác của Hiến pháp 2013 còn có những quy định mới có ý nghĩa quan trọng về việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân, tiêu biểu là: Các quy định củng cố quyền làm chủ của Nhân dân, thể hiện qua Lời nói đầu. Tại Điều 2 khẳng định, Nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân; Điều 4 xác định Đảng Cộng sản Việt Nam chịu sự giám sát của Nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; Điều 6 xác định cách thức nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; Điều 70 bỏ quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến; Điều 120 quy định về nghĩa vụ của Ủy ban dự thảo Hiến pháp phải tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Hiến pháp và khả năng Quốc hội quyết định “trưng cầu ý dân về Hiến pháp”. |
Thứ tư, sự tương thích giữa các quy định của Hiến pháp 2013 với các công ước quốc tế về nhân quyền của Liên Hợp quốc. Đó là lần đầu tiên, Hiến pháp 2013 đề cập đến khái niệm “cấm tra tấn”; đồng thời, quy định cụ thể cấm bất kỳ hình thức bạo lực, đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tất cả mọi người. Điều này tạo cơ sở hiến định để nội luật hóa và thực thi hiệu quả Công ước của Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người mà Quốc hội Việt Nam vừa phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8 cuối năm 2014. Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định nguyên tắc rất quan trọng về giới hạn quyền, theo đó, “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Xét ở những khía cạnh chủ chốt, quy định ở Hiến pháp 2013 đã tương thích với quy định của pháp luật quốc tế về nguyên tắc hạn chế quyền. Về trách nhiệm của Nhà nước, trong Hiến pháp 1992 chỉ đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng. Hiến pháp 2013 ghi nhận cả ba nghĩa vụ, đó là “tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người” không chỉ bảo đảm sự hài hòa với Luật Nhân quyền quốc tế, mà còn tạo cơ sở hiến định ràng buộc các cơ quan Nhà nước phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những nghĩa vụ về quyền con người, quyền công dân trong thực tế, đặc biệt là hai nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm. Việc điều chỉnh đổi thuật ngữ được quy định trong Hiến pháp 1992 sang quyền tiếp cận của Hiến pháp 2013 có ý nghĩa rất lớn, bởi quyền tiếp cận thông tin theo luật quốc tế không chỉ bao gồm quyền được tiếp nhận thông tin như trong Hiến pháp 1992 mà còn bao gồm hai quyền khác đó là quyền được tìm kiếm, yêu cầu cung cấp thông tin và quyền được chia sẻ, phổ biến thông tin. Hiến pháp 2013 quy định nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giới thay cho quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ được nêu ở Hiến pháp 1992. Điều này làm thay đổi quan niệm và cách tiếp cận cũ về bình đẳng giới (nhấn mạnh sự phân biệt đối xử với riêng một giới là phụ nữ) sang quan điểm mới, đó là bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Đây là cách tiếp cận phù hợp với thực tế và với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế; tạo điều kiện để thúc đẩy bình đẳng giới ở nước ta lên một bước mới, có tính cân bằng, thực chất và hiệu quả hơn. Những quy định trên đây cho thấy, việc hiến định các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013 đã bám sát các quy định của Luật Nhân quyền quốc tế và tiếp thu những tiến bộ gần đây trong hiến pháp của một số quốc gia. |
Thứ năm, các quy định mới của Hiến pháp 2013 ảnh hưởng trực tiếp đến quan điểm, phương hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền con người, quyền công dân theo các giá trị chung mang tính phổ quát của nhân loại. Đó là nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 là không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được diễn đạt lại thành “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Với quy định mới này, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải cân bằng và khách quan trong việc tìm chứng cứ. Họ sẽ phải tìm kiếm và coi trọng cả chứng cứ buộc tội và gỡ tội, thay vào việc chỉ tập trung tìm chứng cứ để chứng minh bị can là có tội, nếu không tìm được chứng cứ như vậy thì bị can được coi là vô tội. Về chủ thể của quyền đòi bồi thường, Hiến pháp 2013 đề cập cụ thể hơn đến người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật. Về nội hàm của quyền được bồi thường, nếu như Hiến pháp 1992 chỉ đề cập đến những thiệt hại về vật chất thì Hiến pháp 2013 quy định cả thiệt hại về tinh thần. Tương ứng, các hành vi bị coi là trái pháp luật trong tố tụng hình sự từ Hiến pháp 1992 gồm: Bắt, giam giữ, truy tố, xét xử được mở rộng trong Hiến pháp 2013 đến bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác. Chủ thể của quyền sở hữu tư nhân được mở rộng từ “công dân” trong Hiến pháp 1992 sang “mọi người” trong Hiến pháp 2013. Sự mở rộng này phù hợp với thực tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, khi mà các thể nhân, pháp nhân nước ngoài có mặt làm ăn, sinh sống ngày càng nhiều ở nước ta. Bên cạnh sự mở rộng quan trọng về chủ thể, Hiến pháp 2013 nêu rõ: Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường. Quy định bổ sung này một lần nữa nhấn mạnh việc Nhà nước cam kết tôn trọng quyền sở hữu tư nhân, đồng thời xác lập khuôn khổ hiến định cho sự can thiệp của Nhà nước vào quyền này, qua đó ngăn ngừa những hành động tùy tiện của các cơ quan, quan chức Nhà nước xâm phạm quyền sở hữu tư nhân. |
Kỳ 1: Những bị cáo thoát án tử trong “gang tấc” Sửa đổi Bộ Luật Hình sự, trong đó giảm các tội phạm áp dụng hình thức tử hình thể hiện sâu sắc tính nhân đạo, ... |
Kỳ 2: Quyền được chăm sóc sức khoẻ và quyết sách từ những phiên họp bất thường Những năm qua, Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận nhiều thành tựu nổi bật về nhân quyền, trong đó quyền được bảo ... |
(Còn nữa)
Bài viết: Hoa Đỗ - Ngọc Dung Thiết kế: Thanh Tuấn |