e magazine
06:00 | 22/11/2023
Bài 3: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

06:00 | 22/11/2023

Về phát triển văn hoá giáo dục Thủ đô nhìn từ góc độ thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp văn hoá, chuyên trang Pháp luật và Xã hội xin giới thiệu ý kiến của TS. Phạm Đắc Thi, TS. Trịnh Thuý Hương, Trường đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội…
Bài 3: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Về phát triển văn hoá giáo dục Thủ đô nhìn từ góc độ thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp văn hoá, chuyên trang Pháp luật và Xã hội xin giới thiệu ý kiến của TS. Phạm Đắc Thi, TS. Trịnh Thuý Hương, Trường đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội…

Bài 3: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Điều 24 Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) quy định các chính sách đặc thù để bảo vệ và phát triển văn hóa như quy định phạm vi hỗ trợ, mức hỗ trợ cao hơn quy định hiện hành đối với một số đối tượng; có chính sách ưu đãi phát triển một số lĩnh vực trong ngành công nghiệp văn hóa.

Trong số chính sách Hà Nội đề xuất xây dựng ở Luật Thủ đô (sửa đổi) có chính sách về “Phát triển văn hóa và giáo dục Thủ đô”. Nhìn tổng thể, TP Hà Nội đã dành sự quan tâm đặc biệt, tích cực, chủ động triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các chủ thể; tạo lập đồng bộ các công cụ pháp lý trong xây dựng, phát triển và quản lý Thủ đô. Tuy nhiên, hệ thống giải pháp chủ yếu tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, còn giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp văn hoá hiện chưa được đề cập cụ thể.

Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, khoa học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đem lại rất nhiều cơ hội phát triển, góp phần thay đổi nhanh chóng diện mạo nhiều lĩnh vực, ngành, nghề trong xã hội, kể cả những công việc tưởng chừng rất khó có thể đào tạo, sản xuất hay phát triển một cách ồ ạt, đại trà như âm nhạc, điện ảnh, xuất bản.

Công nghiệp văn hóa và sáng tạo (Cultural and Creative Industries - CCIs) được ghi nhận bởi tổng doanh thu lên đến 2.250 nghìn tỷ USD và tạo việc làm cho 29,5 triệu lao động trên toàn cầu.

Ðặc biệt hơn, đây là ngành công nghiệp trẻ theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng khi có tới gần 20% thành phần lao động ở độ tuổi từ 15 đến 29 nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nghề nghiệp nào.

Trước thực tế tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, ở Việt Nam, vấn đề tập trung cho nguồn nhân lực được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Tại Việt Nam, công nghiệp văn hóa gồm 12 nhóm ngành: Quảng cáo, Kiến trúc, Phần mềm và trò chơi giải trí, Thủ công mỹ nghệ, Thiết kế, Điện ảnh, Xuất bản, Thời trang, Nghệ thuật biểu diễn; Mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; Truyền hình và phát thanh, Du lịch văn hóa.

Trong bối cảnh như vậy, năm 2014, thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” được đề cập tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 (Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI), đặt ra nhiệm vụ về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đi đôi với việc hoàn thiện thị trường văn hoá. Nghị quyết khẳng định mục tiêu chung về xây dựng nền văn hóa:

Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bài 3: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Bài 3: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Về mục tiêu phát triển công nghiệp văn hóa, Đảng chỉ rõ: “xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam” và đề ra nhiệm vụ: “phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”.

Tiếp đó, năm 2016 sau Quyết định số 1755/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định mục tiêu chung: phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm: quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh.

Du lịch văn hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ: “phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa” và kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Kết luận của Bộ Chính trị ngày 9/6/2020) tiếp tục nhấn mạnh chủ trương phát triển công nghiệp văn hóa.

Triển khai thực hiện Chiến lược này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo, tổ chức đào tạo tài năng ở nước ngoài các ngành, chuyên ngành nghệ thuật thuộc lĩnh vực điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật, âm nhạc, múa, xiếc, văn hóa bằng ngân sách Nhà nước để bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ xây dựng các ngành công nghiệp văn hóa; tuyển chọn tài năng ở các ngành, chuyên ngành nghệ thuật thuộc lĩnh vực điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật, âm nhạc, múa, xiếc, văn hóa nhằm đào tạo chất lượng cao, tạo nguồn nhân lực nghệ sĩ biểu diễn phục vụ xây dựng các ngành công nghiệp văn hóa; tổ chức triển lãm mỹ thuật học sinh, sinh viên toàn quốc; các lớp tập huấn, xây dựng các đề án trình Thủ tướng Chính phủ.

Bài 3: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Thành phố tập trung đầu tư phát triển một số lĩnh vực giàu tiềm năng, lợi thế của Thủ đô như: Du lịch văn hóa; Nghệ thuật biểu diễn; Thủ công mỹ nghệ; Thiết kế; Quảng cáo; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Điện ảnh; Thời trang; Âm thực; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Truyền hình và Phát thanh; Xuất bản... phù hợp với thực tiễn Thủ đô và từng giai đoạn cụ thể.

Bài 3: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Quyết định số 1755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô trở thành ngành kinh tế quan trọng, tạo động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; hoàn thành rà soát, tích hợp quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa vào Quy hoạch Hà Nội đến 2030, tầm nhìn đến 2050; cải thiện hạ tầng tương đối đồng bộ, hiện đại, ưu tiên bố trí quỹ đất theo quy hoạch phân khu 2 bên bờ sông Hồng để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với phát triển du lịch.

Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống chỉ tiêu thống kê, triển khai số hóa, kết nối, chia sẻ dữ liệu số đảm bảo cho phát triển công nghiệp văn hóa có tính liên thông và chuyên nghiệp; đầu tư, phát triển sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng cao, đa dạng, độc đáo, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa Hà Nội; đầu tư, tôn tạo hệ thống các thiết chế văn hóa, các di tích Quốc gia, di sản Thế giới Hoàng thành Thăng Long…; giữ vững và phát triển thương hiệu Thủ đô ngàn năm văn hiến, “Thành phố vì hòa bình”, “Thành phố sáng tạo”; phấn đấu đóng góp khoảng 5% GRDP của Thành phố.

Mục tiêu đến năm 2030, ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô cơ bản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác. Hà Nội nằm trong nhóm các thành phố có ngành công nghiệp văn hóa phát triển hàng đầu có thương hiệu, sản phẩm uy tín, khả năng cạnh tranh cao với các Thành phố trong khu vực; là “Thành phố sáng tạo” có sức ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á. Phấn đấu doanh thu từ các ngành công nghiệp văn hóa tăng dần qua từng năm, đóng góp khoảng 8% GRDP của Thành phố.

Mục tiêu đến năm 2045, ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển toàn diện, là động lực phát triển các ngành, lĩnh vực khác, là tiền đề để xây dựng Hà Nội có chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, bền vững; trở thành “Thành phố sáng tạo” của khu vực châu Á, thành phố kết nối toàn cầu, trung tâm văn hóa, du lịch lớn đặc sắc, có sức cạnh tranh quốc tế. Hình thành một số công trình văn hóa mới cho Thủ đô và Việt Nam, mang tính biểu tượng văn hóa có tầm cỡ khu vực và thế giới. Phấn đấu đóng góp khoảng 10% GRDP của Thành phố.

Để đạt được mục tiêu trên, Hà Nội xác định đổi mới tư duy, nhận thức về phát triển công nghiệp văn hóa là một quá trình thường xuyên, liên tục, lâu dài và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình phát triển. Công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế mới, đòi hỏi phải có bước đi phù hợp, với cơ chế, chính sách đặc thù mang tính đột phá, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thành phố.

Có thể nói, chủ trương xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là một bước tiến quan trọng trong nhận thức và hành động của Đảng, Nhà nước cùng các cơ quan quản lý. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xác định là một trong những nhiệm vụ cơ bản của xây dựng văn hóa để đạt mục tiêu văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước.

Trên cơ sở các nội dung đã phân tích ở trên, nhằm góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), tác giả kiến nghị bổ sung điều mục về “Phát triển công nghiệp” trong đó có phát triển “Công nghiệp văn hoá” tại Chương III Dự thảo để tương xứng với mục “Phát triển nông nghiệp, nông thôn” quy định tại Điều 35 Chương này.

Với vị thế là Thủ đô ngàn năm văn hiến, có bề dày lịch sử và nền tảng di sản văn hóa phong phú, đa dạng, nơi hội tụ, kết tinh, tỏa sáng, nơi nuôi dưỡng, thúc đẩy sự sáng tạo văn hóa, nơi tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa chất lượng, Thành phố Hà Nội là địa phương đầu tiên ban hành Nghị quyết về phát triển công nghiệp văn hóa, ngày 22/2/2022, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU của Thành ủy về "Phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".

Nghị quyết có mục tiêu tạo bước phát triển toàn diện các ngành công nghiệp văn hóa của Thủ đô phát triển bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; dịch vụ, sản phẩm văn hóa đa dạng, có thương hiệu, thúc đẩy phát triển du lịch và xuất khẩu.

Mục tiêu đặt ra là tạo bước phát triển toàn diện các ngành công nghiệp văn hóa của Thủ đô cả về quy mô, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và thị trường, đảm bảo phát triển bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ, tỷ trọng, giá trị gia tăng cao; hoạt động có tính chuyên nghiệp, với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; dịch vụ, sản phẩm văn hóa đa dạng, có chất lượng, có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ của người dân trong nước, thúc đẩy phát triển du lịch và xuất khẩu.

(Còn nữa)

Bài 1: Mục tiêu rõ ràng và những giải pháp vượt trội trong giáo dục Bài 1: Mục tiêu rõ ràng và những giải pháp vượt trội trong giáo dục
Bài 2: Giáo dục là cốt lõi của văn hóa, văn hóa và giáo dục còn thì dân tộc còn Bài 2: Giáo dục là cốt lõi của văn hóa, văn hóa và giáo dục còn thì dân tộc còn

Hoa Đỗ

Ảnh: Khánh Huy

Trình bày: Duy Anh