Hợp tác công nghiệp quốc phòng Việt Nam và các nước

Trong khuôn khổ Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022, sáng 9/12, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội thảo "Hợp tác công nghiệp quốc phòng Việt Nam và các nước” với sự tham dự của các diễn giả đến từ các đơn vị trong và ngoài nước tham dự.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, duyệt đội danh dự tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, duyệt đội danh dự tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022.

Hội thảo có 9 nội dung trao đổi, là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác trưng bày giới thiệu chuyên sâu hơn về năng lực, sản phẩm và giải pháp công nghệ; các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong Bộ Quốc phòng có cơ hội tiếp cận các thông tin để nâng cao năng lực quản lý, khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất và triển khai các nhiệm vụ tại đơn vị.

Tại hội thảo, Đại tá Dương Văn Yên, đại diện Tổng cục Công nghiệp quốc phòng Việt Nam, đã giới thiệu chuyên đề “Công nghiệp quốc phòng Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế, phát triển theo hướng lưỡng dụng, hiện đại”, thu hút sự quan tâm và nhận được sự đánh giá cao của các đại biểu trong nước và quốc tế.

Đại tá Dương Văn Yên cho biết, công nghiệp quốc phòng Việt Nam được ra đời ngay sau khi nước Việt Nam giành được độc lập năm 1945. Trải qua gần 78 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, đồng hành cùng mọi thắng lợi của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp quốc phòng Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và đang lớn mạnh không ngừng: Bắt đầu với các xưởng sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật và đến nay đã hình thành được một hệ thống thống nhất các cơ sở nghiên cứu, sản xuất trải dài trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề.

Hầu hết các cơ sở công nghiệp quốc phòng Việt Nam thuộc sở hữu Nhà nước, giao cho Bộ Quốc phòng Việt Nam quản lý. Trong đó, Tổng cục công nghiệp quốc phòng là cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ, Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý về công nghiệp quốc phòng trên phạm vi cả nước; đồng thời, quản lý, chỉ đạo các công ty sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị trực thuộc. Đại tá Dương Văn Yên nhấn mạnh, hiện nay, năng lực của các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ cả cơ sở hạ tầng kỹ thuật và chất lượng nguồn nhân lực.

Theo Đại tá Dương Văn Yên, hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng là một trụ cột trong đối ngoại quốc phòng. Chủ trương của Việt Nam trong hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng là đa phương hóa, đa dạng hóa các kênh hợp tác, mua sắm, tiếp nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài về sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật, trang bị hậu cần đáp ứng yêu cầu của các lực lượng vũ trang. Nhiều sản phẩm được sản xuất thành công từ kết quả hợp tác chuyển giao công nghệ hay hợp tác nghiên cứu, sản xuất với các nước như súng, tàu quân sự, ngòi đạn, thuốc phóng, thuốc nổ... Đồng thời, tìm kiếm cơ hội xuất khẩu sản phẩm quốc phòng do Việt Nam sản xuất.

Chia sẻ về định hướng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng trong thời gian tới, Đại tá Dương Văn Yên nhấn mạnh, Việt Nam chủ động thực hiện phương thức hợp tác quốc tế đa dạng, linh hoạt, đồng bộ cả về chiều rộng và chiều sâu: Chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, hợp tác cùng nghiên cứu phát triển mẫu vũ khí mới, hợp tác về đào tạo nhân lực, phát triển thị trường quốc tế và xây dựng thương hiệu, xuất khẩu sản phẩm quân sự, lưỡng dụng và sản phẩm kinh tế; tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong phân công chuyên môn hoá sản xuất trước hết là các sản phẩm kinh tế và lưỡng dụng...

Đề cập tới chính sách phát triển theo hướng lưỡng dụng của công nghiệp quốc phòng Việt Nam, Đại tá Dương Văn Yên cho biết, chính sách này được triển khai đồng bộ theo hai chiều: Một là, đẩy mạnh các lĩnh vực có thế mạnh của công nghiệp quốc phòng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Hai là, huy động tối đa năng lực sản xuất, công nghệ của các thành phần kinh tế công nghiệp dân sinh cho các hoạt động công nghiệp quốc phòng. Qua đó, kết hợp chặt chẽ các cơ sở công nghiệp quốc phòng với các cơ sở công nghiệp dân sinh phục vụ phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ phải tuân thủ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, sẵn sàng huy động, động viên để sản xuất bảo đảm cho nhu cầu quốc phòng khi cần thiết.

Về chính sách phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện đại, Đại tá Dương Văn Yên lưu ý, Việt Nam chủ trương xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng đạt trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại, đủ năng lực sản xuất được các loại vũ khí trang bị hiện đại, vũ khí chiến lược, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại, nâng cao sức mạnh, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nâng cao tiềm lực quốc phòng. Đại tá Dương Văn Yên cũng đưa ra các định hướng, giải pháp phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam theo hướng lưỡng dụng, hiện đại.

Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 do Bộ Quốc phòng tổ chức, diễn ra từ ngày 8 - 10/12, thu hút 174 đơn vị, doanh nghiệp đến từ 30 nước tham gia trưng bày các phương tiện chiến đấu, giải pháp công nghệ, vũ khí, trang bị sử dụng cho lực lượng hải quân, lục quân, phòng không - không quân, tác chiến không gian mạng và các trang thiết bị hậu cần, kỹ thuật.

Cũng trong khuôn khổ Triển lãm quốc phòng Quốc tế Việt Nam 2022 có các hội thảo về "Chuyển đổi số và ứng dụng trong lĩnh vực quốc phòng", "Hợp tác công nghiệp quốc phòng Việt Nam và các nước" và diễn đàn "Hợp tác công nghiệp quốc phòng Việt Nam-Nhật Bản".

“Nghiên cứu, phát triển sản phẩm công nghiệp an ninh lưỡng dụng”
Đẩy mạnh xây dựng công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng
"Lưỡng dụng hóa” trong ngành Công nghiệp quốc phòng

HP

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.