"Giá thuốc lá ở Việt Nam rẻ đến mức khó tin"

Đó là nhận định của TS. Angela Pratt, Trưởng đại diện Văn phòng Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam tại hội thảo “Thực trạng, thách thức và giải pháp phòng chống tác hại thuốc lá tại Việt Nam”.
TS. Angela Pratt cho rằng, để bảo vệ sức khỏe của giới trẻ thì không nên thí điểm hoặc hợp pháp hóa thuốc lá điện tử và thuốc lá thế hệ mới

Theo TS. Angela Pratt, việc thuốc lá ở Việt Nam được bán rẻ "đến mức khó tin" đồng nghĩa với việc giá cả không phải là rào cản đối với giới trẻ trong việc hình thành thói quen hút thuốc lá. Minh chứng cho nhận định này chính là tỷ lệ sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành tại 34 tỉnh, TP của Việt Nam năm 2020 vẫn giảm chậm và còn cao.

Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế Trần Thị Trang cho biết, kết quả điều tra mô tả thực trạng sử dụng thuốc lá ở người Việt Nam cho thấy, Việt Nam vẫn nằm trong số 15 quốc gia sử dụng thuốc lá cao nhất thế giới.

Tỷ lệ sử dụng hút thuốc lá chung năm 2020 chỉ giảm 0,8% so với năm 2015 (21,7% năm 2020 so với 22,5% năm 2015). Tỷ lệ nam giới hút thuốc vẫn chiếm 42,3% dù giảm 2% so với năm 2015 (45,3%) và tỷ lệ nữ giới hút thuốc là 1,7%, tăng so với năm 2015 (1,1%).

Nếu so sánh thô thì chỉ sau 5 năm, tỷ lệ hút thuốc lá điện tử ở Việt Nam đã tăng 36,5 lần đối với cả hai giới, và tăng lần lượt trong hai nhóm nam giới và nữ giới là 22,75 và 46 lần. Trong đó, tỷ lệ sử dụng thuốc lá mới ở các thành phố có xu hướng tăng, nhất là đối tượng học sinh, sinh viên, giới trẻ.

TS. Angela Pratt cho rằng, để việc tiếp tục hút thuốc ở những người trẻ trở nên khó khăn hơn thì tăng thuế thuốc lá sẽ là cách nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất để đạt được điều này.

Cùng chung quan điểm này, ThS. Nguyễn Hạnh Nguyên, Tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam cũng nhấn mạnh từ các số liệu thống kê ở các quốc gia cho thấy, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá giúp giảm tiêu dùng, nâng cao sức khoẻ, giảm bệnh tật, tử vong sớm và các chi phí y tế và kinh tế liên quan.

Một trong những vấn đề WHO lo ngại là vấn đề giới trẻ sử dụng thuốc lá điện tử và các sản phẩm thuốc lá mới khác. Những sản phẩm này không an toàn, không có lợi cho sức khỏe mà thực sự rất nguy hiểm đối với sức khỏe của thanh thiếu niên. Tuy nhiên, các bằng chứng hiện có đều chỉ ra rằng tỷ lệ sử dụng đang có xu hướng gia tăng.

Nguyên nhân chính khiến tỷ lệ giới trẻ sử dụng thuốc lá mới, thuốc lá điện tử tăng là do các sản phẩm này được thiết kế và bày bán trên thị trường với màu sắc, hương vị và bao bì hấp dẫn để thu hút giới trẻ. Điều này nằm ngay trong kịch bản của các tập đoàn thuốc lá đa quốc gia đó là: Dẫn dụ giới trẻ vào con đường nghiện nicotine và biến họ trở thành khách hàng suốt đời. Từ đó, WHO khuyến nghị các quốc gia nên làm mọi cách để ngăn chặn thanh thiếu niên sử dụng các sản phẩm thuốc lá mới.

Điều này có nghĩa là để bảo vệ sức khỏe của giới trẻ thì không nên thí điểm hoặc hợp pháp hóa các sản phẩm này, để chúng ta có thể tránh việc tạo ra một thế hệ tương lai nghiện các sản phẩm thuốc lá rất có hại này.

Đồng tình với quan điểm này, đại diện Bộ Y tế đề nghị cấm toàn bộ các sản phẩm thuốc lá mới vì các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới, bao gồm thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng đều là các sản phẩm có hại cho sức khỏe.

Nói về tác hại của thuốc lá điện tử, thuốc lá thế hệ mới, TS. Angela Pratt cho biết, những sản phẩm này chứa hàm lượng lớn nicotine, một chất gây nghiện mạnh. Nicotine ảnh hưởng đến trí nhớ, mức độ chú ý, khả năng tập trung, học tập và tác động tiêu cực đến tâm trạng của thanh, thiếu niên. Những sản phẩm này có chứa các chất độc hại tương tự như những chất độc có trong thuốc lá thông thường - những chất đã được chứng minh là có thể gây ung thư, bệnh tim và bệnh phổi về lâu dài.
Cô gái bất tỉnh sau khi hút thuốc lá điện tử-lời cảnh tỉnh cho giới trẻ
Tăng cường phối hợp liên ngành trong xử phạt vi phạm phòng, chống tác hại thuốc lá
Thử cảm giác “làm người lớn”, nam sinh nhập viện vì ngộ độc thuốc lá điện tử

Bảo Long

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.