Trừng phạt hành vi tra tấn, đối xử vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người

Nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, Bộ luật Hình sự qua các thời kỳ quy định nhiều chế định pháp lý nhằm bảo đảm trừng trị các hành vi liên quan đến tra tấn, bạo lực, bức cung, nhục hình hay các hành vi khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con người.
Bộ luật Hình sự qua các thời kỳ quy định nhiều chế định pháp lý nhằm bảo đảm trừng trị các hành vi liên quan đến tra tấn, bạo lực, bức cung, nhục hình hay các hành vi khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con người.
Bộ luật Hình sự qua các thời kỳ quy định nhiều chế định pháp lý nhằm bảo đảm trừng trị các hành vi liên quan đến tra tấn, bạo lực, bức cung, nhục hình hay các hành vi khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con người.

Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa quy định tra tấn như mô tả tại Công ước Công ước Chống tra tấn là một tội danh độc lập cũng như không quy định khái niệm "tra tấn". Tuy nhiên, không phải đợi đến khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Chống tra tấn thì chúng ta mới có các công cụ pháp lý hình sự để phòng, chống và trừng trị hành vi tra tấn. Nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, Bộ luật Hình sự qua các thời kỳ quy định nhiều chế định pháp lý nhằm bảo đảm trừng trị các hành vi liên quan đến tra tấn, bạo lực, bức cung, nhục hình hay các hành vi khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con người.

Rà soát BLHS 1999 cho thấy, hành vi tra tấn tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể xử lý về tội giết người (Điều 93), tội đe doạ giết người (Điều 103), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107), tội làm nhục người khác (Điều 121), tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123), tội dùng nhục hình (Điều 298), tội bức cung (Điều 299), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều 303), tội ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 340),...

Trong số các tội phạm nêu trên, có 2 điều luật có cấu thành gần với tra tấn theo yêu cầu của Công ước, đó là tội dùng nhục hình (Điều 298), tội bức cung (Điều 299). Hai tội này được quy định tại Chương XXII của BLHS 1999 về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp- là các tội xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Ngoài ra để bảo đảm trừng trị hành vi tra tấn, BLHS năm 1999 cũng quy định các vấn đề liên quan đến quyền tài phán, theo đó: i) BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam; ii) công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam; iii) người nước ngoài phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam trong trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Đánh giá các quy định của BLHS 1999 với các quy định của UNCAT về hình sự hóa cho thấy, về cơ bản, pháp luật hình sự của Việt Nam, mặc dù không quy định tội tra tấn nhưng bằng các quy định khác nhau, đã bảo đảm xử lý các hành vi tra tấn theo khái niệm ghi nhận tại UNCAT.

Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định của BLHS năm 1999 về các tội danh tương ứng liên quan đến tội phạm tra tấn, đồng thời đã có nhiều sự sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với tinh thần của Công ước Chống tra tấn.

Nghĩa vụ tuyên truyền chống tra tấn của các quốc gia thành viên
Không trao trả một người trở lại nước có nguy cơ bị tra tấn
Không sử dụng những lời khai là kết quả của hành vi tra tấn
Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của nạn nhân bị tra tấn
Cấm tra tấn và các biện pháp đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo

Quang Trung

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.