Khi di chúc không thể hiện diện tích đất cụ thể
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên![]() |
| Ảnh minh họa |
Tranh chấp 32.500m2 đất?
Theo đó, tại đơn khởi kiện đề ngày 15/3/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị G trình bày: cha, mẹ bà là cụ Nguyễn Văn M (chết năm 1998) và cụ Nguyễn Thị B (chết năm 2010); cụ M và cụ B có 8 người con. Di sản thừa kế do cụ M, cụ B để lại là phần đất có diện tích 32.500m2 thuộc tờ bản đồ số 10D, thừa số 809 và 810 tại ấp N, xã T, huyện C (nay là huyện P), tỉnh Cà Mau.
Nguồn gốc đất tranh chấp là của cha, mẹ cụ B khai phá. Năm 1993, cụ M được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1994, 1995, ông Nguyễn Văn U ra ở riêng trên phần đất tại ấp A, xã T, huyện P, còn bà chung sống với cha mẹ từ nhỏ và quản lý, sử dụng phần đất 32.500m2 nêu trên từ đó cho đến nay.
Ngày 16/5/1998, cụ M lập di chúc để lại cho bà phần đất 15 công tầm cấy, còn 10 công thì ai thờ cúng ông bà sẽ được hưởng. Khi lập di chúc cụ M vẫn còn minh mẫn. Năm 2000, ông U giả mạo chữ ký của cụ M để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Ụ mà bà không biết.
Sau khi cụ B chết, bà vẫn quản lý và sử dụng đất cho đến nay. Tuy nhiên, năm 2016, ông U ngăn cản không cho bà sử dụng đất và cho rằng, đất này ông U đã được cha, mẹ cho.
Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện C cấp cho ông U ngày 15/11/2000 và công nhận quyền sử dụng đất cho bà theo di chúc đối với phần đất có diện tích 32.500m2 (đo đạc thực tế là 35.180,7m2). Căn nhà có trên đất là của cụ M và cụ B, ông U chỉ là người đứng ra xây dựng khi còn ở chung với cha mẹ, khi ông U đi nơi khác thì bà sử dụng và có sửa chữa lại.
Bị đơn là ông Nguyễn Văn U trình bày , nguồn gốc đất tranh chấp do cụ M, cụ B khai phá từ năm 1950. Năm 1983, bà G cất nhà tạm ở mặt tiền phần đất tranh chấp để buôn bán, còn ông là con trai út tiếp tục chung sống, chăm sóc cha mẹ và trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Khoảng năm 1993, ông xây dựng căn nhà từ nguồn tiền trong gia đình vì lúc này ông sống chung với gia đình.
Năm 1998, cha, mẹ tặng cho ông đất, có biên bản họp gia đình và ông đã nộp cho cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cùng năm 1998, ông đã kê khai, đăng ký theo quy định và được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/11/2000.
Tại đơn phản tố đề ngày 16/3/2018, ông U yêu cầu Tòa án buộc bà G trả lại cho ông toàn bộ diện tích phần đất tranh chấp và căn nhà cấp 4 trên đất.
Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 646
Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2019/DS-ST ngày 16/4/2019 (Bản án sơ thẩm số 04), TAND tỉnh Cà Mau quyết định: chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc chia thừa kế của bà Nguyễn Thị G đổi với ông Nguyễn Văn U. Bà G được hưởng thừa kế đối với phần di sản của cụ Nguyễn Văn M và cụ Nguyễn Thị B để lại; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R202211 cấp ngày 15/11/2000 của UBND huyện C, tỉnh Cà Mau cho ông Nguyễn Văn U đứng tên; không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn U về việc buộc bà G, chị H, anh T trả lại cho ông U toàn bộ diện tích đất tranh chấp nêu trên và căn nhà trên đất.
Ngày 26/4/2019, bị đơn là ông Nguyễn Văn U có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Bản án dân sự phúc thẩm số 646/2019/DS-PT ngày 13/12/2019 (Bản án phúc thẩm số 646), TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh quyết định, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên Bản án số 04.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/QĐ-VKS-DS ngày 4/3/2022, Viện trưởng VKSND tối cao kháng nghị đối với Bản án phúc thẩm số 646, đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án phúc thẩm nêu trên, hủy Bản án sơ thẩm số 04, giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện VKSND tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. Tuy nhiên, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao tuyên không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01 của Viện trưởng VKSND tối cao; giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 646 của TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh.
Nội dung án lệ
Theo tờ di chúc đề ngày 16/5/1998, cụ M và cụ B cho bà G diện tích đất là 15 công tầm lớn. Mặc dù di chúc không ghi diện tích đất cụ thể, chỉ ghi là 15 công tầm lớn nhưng có nêu tứ cận của khu đất: Mặt tiền giáp Kênh N, Đông (hậu) giáp Nguyễn Văn L1, Bắc giáp Lý Tùng H1, Tây giáp Quốc Văn M2. Như vậy, phần đất bà G được cha, mẹ cho là đất có khuôn viên, xung quanh tiếp giáp với kênh N và đất của các hộ dân khác, hiện nay không có tranh chấp về tứ cận.
Sau khi cụ M chết, tại biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004 và tờ di chúc ngày 9/9/2006 cụ B đã thể hiện ý chí cho bà G toàn bộ diện tích 32.500m2 đất, diễu này phù hợp với việc năm 1998 vợ chồng cụ M, cụ B lập di chúc cho bà G đất theo khuôn viên.
Tờ di chúc đề ngày 16/5/1998 do cụ M và cụ B lập có chữ ký của các con (trong đó có ông U) và xác nhận của chính quyền địa phương; Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004, có chữ ký của các con (không có chữ ký của ông U) và xác nhận của chính quyền địa phương, tờ di chúc đề ngày 9/9/2006 có xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện tại thời điểm lập di chúc và họp gia đình các con của cụ M, cụ B không ai có ý kiến phản đối việc hai cụ cho bà G toàn bộ phần đất tranh chấp, đều xác nhận do bà G sống chung với cha mẹ từ nhỏ nên cha, mẹ và các anh chị em thống nhất cho bà G quản lý đất để thờ phụng cha, mẹ.
Riêng ông U cho rằng, ông U được cụ M, cụ B tặng cho đất từ năm 1998 nên ngày 15/11/2000, ông U được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông U không xuất trình được chứng cứ chứng minh có việc cha mẹ tặng cho đất.
Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào nội dung của di chúc, biên bản họp gia đình, lời khai của các con cụ M, cụ B và quá trình quản lý, sử dụng đất liên tục từ năm 1998 của bà G cũng như việc kê khai, đăng ký đất từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G, công nhận bà G được hưởng thừa kế đối với phần đất là di sản của cụ M, cụ B là có căn cứ.
| Khi nào việc thực hiện di chúc miệng được công nhận? Theo Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc di chúc miệng... |
| Người Việt ở nước ngoài có thể lập di chúc để định đoạt tài sản ở Việt Nam? Theo luật sư, nếu người Việt Nam ở nước ngoài minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc, không bị cưỡng ép, đe dọa thì ... |
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại







