Bức cung luôn bị coi là hành vi trái pháp luật và bị pháp luật nghiêm cấm
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênBức cung luôn bị coi là hành vi trái pháp luật và bị pháp luật nghiêm cấm. Ảnh minh họa |
Chủ thể của hành vi bức cung
Theo quy định tại Điều 374 của Bộ luật Hình sự năm 2015, người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng các thủ đoạn trái pháp luật để buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin vụ án, vụ việc thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bức cung.
Hành vi bức cung được biểu hiện thông qua việc sử dụng các thủ đoạn trái pháp luật- là các phương pháp, cách thức bị pháp luật cấm hoặc không có quy định nào cho phép người có thẩm quyền được sử dụng trong hoạt động tố tụng (lấy lời khai, hỏi cung,...) như dùng vũ lực, nhục hình, đe dọa sẽ xử nặng hơn, đe dọa sẽ giam lâu, hỏi cung liên tục vào ban đêm, đe dọa xâm hại người thân thích,... để buộc nạn nhân phải cung cấp thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc.
Cũng tương tự như tội dùng nhục hình, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội bức cung là chủ thể đặc biệt- người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,... và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là để buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung do đau đớn, lo sợ mà phải khai ra hoặc cung cấp thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc.
Hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội bức cung
Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội bức cung theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 cũng rất nghiêm khắc từ 06 tháng tù đến 20 năm hoặc tù chung thân tùy trường hợp cụ thể, như sau:
Khoản 1 Điều luật quy định khung hình phạt cơ bản với mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khoản 2 Điều luật quy định mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp tăng nặng: phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung; dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; dẫn đến làm sai lệch kết quả khỏi tố, điều tra, truy tố, xét xử; buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật.
Khoản 3 Điều luật quy định mức phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: làm người bị bức cung tự sát; dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng hoặc bỏ lọt người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
Khoản 4 Điều luật quy định khung hình phạt cao nhất với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong phạm tội thuộc một trong các trường hợp: làm người bị bức cung chết; dẫn đến làm oan người vô tội; dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm.
Để bảo đảm phù hợp với yêu cầu của Công ước Chống tra tấn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, so với quy định của BLHS 1999, Điều 374 của BLHS năm 2015 có những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cấu thành cơ bản của tội bức cung như sau:
Bộ luật hình sự năm 2015 sử dụng thuật ngữ “trong hoạt động tố tụng” thay thế cho thuật ngữ “tiến hành điều tra, truy tố, xét xử” trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo quy định này, phạm vi chủ thể thực hiện tội phạm được mở rộng hơn, qua đó bảo đảm phù hợp với thực tiễn và quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật có liên quan.
Bộ luật Hình sự năm 2015 sử dụng thuật ngữ “người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung” thay thế cho thuật ngữ “người bị thẩm vấn”, để bảo đảm phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật có liên quan.
Theo quy định Điều 299 Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi bức cung chỉ cấu thành tội phạm khi ép buộc người bị thẩm vấn khai sai sự thật và gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, Điều 374 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi cơ bản quy định này theo hướng chỉ cần thực hiện hành vi ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc thì đã cấu thành tội bức cung. Đồng thời, tình tiết “ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật” được quy định là một tình tiết định khung tăng nặng trác nhiệm hình sự tại điểm g khoản 2 Điều 374. Đây là điểm mới rất quan trọng cần được quán triệt nắm vững trong nhận thức nhằm đảm bảo quyền con người và hạn chế việc bức cung của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hành vi “dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung” là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội bức cung tại điểm d khoản 2 Điều 374. Đây cũng là hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội dùng nhục hình, do đó, cần xác định mục đích của hành vi trên để phân biệt trường hợp phạm tội “dùng nhục hình” với trường hợp phạm tội “bức cung” mà dùng nhục hình.
Thứ ba, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể, rõ ràng các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội bức cung tại các khoản 2, 3, 4 của Điều 374, thay thế cho các quy định mang tính định tính trong Bộ luật hình sự năm1999 như “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.
Thứ tư, cũng tương tự như quy định tại Điều 373 về tội dùng nhục hình, Điều 374 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản hình phạt đối với người thực hiện hành vi bức cung, theo hướng nâng mức hình phạt cao nhất từ 10 năm tù (tại khoản 3 Điều 299 BLHS năm 1999) lên thành từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân (khoản 4 Điều374) để bảo đảm chính sách xử lý nghiêm minh đối với loại tội phạm này.
Trong Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị được Đại Hội đồng liêm hợp quốc thông qua ngày 16/12/1996 khẳng định những quyền cơ bản của con người, cụ thể:" Không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người..."(Điều 7); "Những người bị tước tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm" (khoản 1 Điều 10); Người bị buộc tội "có quyền không đưa ra những lời khai chống lại mình hoặc không bị ép buộc nhận tội" (điểm g khoản 3 Điều 14). |
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại