(PL&XH) - Mới chỉ có một ngôi mộ ghi tên 2 tráng sỹ do người nhà của họ lặn lội tìm thấy. Ngôi mộ đang nằm trong một khu vườn của một người dân ở Nghĩa Đô…
Vụ án làm rung chuyển Hà thành xảy ra năm 1908, dù đã hơn 100 năm trôi qua, sức nóng của nó vẫn như còn nguyên vẹn. Lịch sử còn thao thức với hàng loạt các câu hỏi chưa được trả lời: chính xác 12 hay 13 tráng sỹ vị chặt đầu? Đầu và thân từng người hiện được mai táng rải rác ở những đâu? Vì sao sự hy sinh liệt oanh như vậy nhưng cho đến nay họ vẫn chưa được tôn vinh xứng đáng?
Mới chỉ có một ngôi mộ ghi tên 2 tráng sỹ do người nhà của họ lặn lội tìm thấy. Ngôi mộ đang nằm trong một khu vườn của một người dân ở Nghĩa Đô… Và gần đây nhất, các nhà ngoại cảm đã hé lộ những chi tiết kỳ bí và xác thực về những Anh hùng liệt sỹ này.

Những nghĩa sĩ bị thực dân Pháp bắt sau vụ án “Hà Thành đầu độc”. Ảnh: TL
Kế hoạch của Phan Bội Châu và Hoàng Hoa Thám
Nếu mưu đồ quân sự đầy táo bạo này thành công thì Hà Nội không phải chờ đến ngày 10-10-1954 mới được giải phóng. Các nguồn sử thi chính thống đang được lưu trữ ở Việt Nam cũng như bảo tàng Pháp đều ghi rằng: Trước đó, từ năm 1906, trong một lần bí mật từ Nhật về, Phan Bội Châu đã lên Yên Thế 10 ngày gặp Hoàng Hoa Thám. Dưới ánh trăng rừng Phồn Xương họ đã bàn việc lớn, theo đó muốn cứu nước sớm không gì nhanh bằng chiếm Hà Nội, muốn đánh Pháp không gì bằng nội công ngoại kích.
Kế hoạch đầu tiên được hoạch định vào năm 1907. Cụ thể là vào 8 giờ tối ngày 14-11-1907 khi binh lính Việt được phát súng đi tập ở Sơn Tây sẽ đồng loạt nổi loạn. Nhưng kế hoạch phải tạm hoãn vì số súng không đủ nhiều để tới tay các binh lính yêu nước. Ttrong cuốn sách của tiến sỹ Patrice Morlat lấy nguồn tư liệu từ tàng thư Bộ thuộc địa Pháp, sau vụ này công sứ Jule Bosc ở Hà Đông đã nghi ngờ và báo mật thám theo dõi một địa chỉ hòm thư bí mật ở quán cơm 20 Cửa Nam mà cô chủ xinh đẹp Nguyễn Thị Ba ở đây rất được lòng đám lính khố đỏ trong thành vẫn ra ăn uống!
Tiếp đó chủ tướng Hoàng Hoa Thám thực hiện kế hoạch 2 nhằm đầu độc 2.000 binh lính Pháp thuộc 2 trung đoàn Pháo binh và Bộ binh Pháp đóng trong thành Hà Nội. Bộ sách Phan Bội Châu toàn tập kể lại: Trong một đêm hè ở chùa Bạch Mã (phố Hàng Buồm) có một cuộc rượu của gần 200 nghĩa binh bí mật tụ tập. Tại đây đội Bình đã long trọng tuyên bố: “Hôm nay chúng ta bàn với nhau một việc đặc biệt hệ trọng. Đó là việc lấy lại nước Việt Nam. Nếu mưu đồ không thành công chúng ta vẫn theo đuổi nhiệm vụ này tới chết, quyết không lùi bước trước sự hi sinh nào để cứu lấy Tổ quốc chúng ta. Các đồng bào có đồng ý với tôi không?”. Mọi người đồng thanh nhất trí.
Tối 25-6 đội Bình đã chủ trì cuộc họp bí mật cuối cùng tại nhà cô Ba chủ quán cơm 20 Cửa Nam. Tại đây mọi người đã cắt máu ăn thề. Kế hoạch được thông qua tới từng chi tiết:
- 4g chiều ngày 25-6: Cai Nga nhận và chuyển thuốc độc được làm bằng cà độc dược và nhân ngôn vào trong thành.
- 5g chiều: Bộ phận đầu bếp do bếp trưởng Hai Hiên chỉ huy sẽ bỏ thuốc độc vào thức ăn của sĩ quan và binh lính Pháp.
- 6g chiều: Nghĩa binh bí mật tháo ngòi nổ các khẩu đại bác trong thành.
- 8g tối: Khi các binh lính và sĩ quan Pháp đã bị đầu độc, cai Nga sẽ leo lên thành bắn ba phát pháo hiệu. Đó là hiệu lệnh cho các toán quân của Đề Thám đã được mai phục ngoài thành. Cùng lúc, các lực lượng dân binh chuẩn bị sẵn giáo mác xông vào thành. Đại quân của Đề Thám từ Bắc Giang kéo về sẽ kịp thời hợp xông vào chiếm giữ thành. Binh lính yêu nước trong thành (lính khố đỏ) chia làm 3 mũi đánh từ trong ra:
- Mũi thứ nhất do Đội Bình ( là Tổng chỉ huy trực tiếp phụ trách, cai Nga là Phó) có nhiệm vụ tấn công vào Bộ tham mưu Pháp ở trong thành.
- Mũi thứ hai do Đội Nhân chỉ huy sẽ tấn công vào Phủ toàn quyền Đông Dương.
- Mũi thứ ba do Đội Cốc chỉ huy tấn công vào Phủ thống sứ Bắc Kỳ.
Nhưng việc lớn đã không thành. Chất độc không đủ mạnh nên sỹ quan và binh lính Pháp chỉ bị choáng váng mà không chết. Trước đó một người đội tên Trương biết chuyện đã đến xưng tội với đức cha ở Nhà thờ lớn. Cai Nga vừa trèo lên thành định bắn pháo hiệu thì bị bắt. Không thấy hiệu lệnh dân binh và các đám mai phục bên ngoài theo lệnh của Hoàng Hoa Thám rút lui.
Các yếu nhân trong vụ âm mưu đầu độc đã bị bắt. Chỉ sau 1 tuần, phiên tòa đại hình do viên công sứ người Pháp Jules Bosc chủ tọa đã tuyên án 59 người, trong đó 13 người bị chém đầu, 6 người khác bị tử hình vắng mặt, 4 người bị khổ sai chung thân, 26 người bị đày ra Côn Đảo với mức án từ 5 đến 20 năm tù.
Để trấn an dư luận, đặc biệt là những người Pháp (họ hoảng hốt kéo đến Phủ toàn quyền xin được bảo vệ), chính quyền thực dân đã lập tức đưa ra xử chém 3 thủ lĩnh đầu vụ: Đội Bình, Đội Nhân và Nguyễn Văn Cốc. Một phóng viên người Pháp đã miêu tả chi tiết vụ hành quyết với chí khí kiên cường của những vị Anh hùng cứu nước bằng thái độ kính nể:
“Đội thi hành án đã chuẩn bị sẵn xe kéo để đưa những người Anh hùng ra pháp trường vì nghĩ rằng họ có thể không đi được vì mất tinh thần. Tuy nhiên cả 3 ông Đội Nhân, Đội Bình, Đội Cốc đều hiên ngang tiến ra pháp trường. Đó là một trường bắn đơn sơ được dựng vội vàng vào đêm 7 sáng 8-7-1908 tại bãi Gáo (chân Cột Cờ Hà Nội hiện nay). Rất đông người dân Hà Nội đã đến tiễn đưa những người anh hùng. Vợ Đội Nhân lúc đó mang thai đứa con gái nhỏ cũng có mặt nhưng bà phải bôi mặt hóa trang thành người phụ nữ khóc thuê để tránh mật thám theo dõi (lúc đó Đội Nhân mới 28 tuổi và vợ 25 tuổi). Viên quan Pháp Duyvier trước khi hành quyết còn giả bộ ngon ngọt dụ dỗ họ khai tiếp kẻ chủ mưu để hưởng lượng khoan hồng.
Nhưng Đội Nhân đã lớn tiếng mắng lại chúng: “Ta không có gì để khai. Các người cứ chém đi. Ta không làm loạn mà chỉ là người trung với nước!”. Sau một hồi kèn và 3 tiếng trống, những lưỡi gươm được tuốt ra. Những lưỡi gươm của đao phủ giáng xuống... Mọi người chứng kiến đến tận nơi thắp hương, quỳ lạy khấn vái như trên bàn thờ người Việt”. Sau đó thủ cấp của 3 ông được cho vào 3 cái rọ tre và thực dân Pháp đã mang treo tại cành đa cổ thụ ở ngã tư Trung Hiền - Bạch Mai. Nhưng ngay trong đêm bà con đã lấy lại được đầu các ông và đem đi chôn cất.
Ngày 3-8 chúng xử tiếp ba người là Bếp Hiên, Cai Nga và Bếp Xuân.
Ngày 29-8, các ông Lang Sèo, Cai Xe, và Cai Tôm bị hành quyết. 3 người cuối cùng bị chém ngày 27-11 là Đồ Đàm, Đội Hổ, Lý Chánh (có tài liệu nói 4). Địa điểm chém là vườn Bàng (gần cây đa chợ Bưởi), sau đó thi hài được đưa về chôn tại vườn gia đình ông Thành, tổ 168, Nghĩa Đô. Cô Đỗ Thanh Hằng (chắt nội cụ Đồ Đàm) kể lại theo ký ức của gia đình: Ông Đồ Đàm trốn thoát về Hưng Yên nhưng nghe bọn Pháp dọa tru di tam tộc nếu không ra đầu thú nên ông lộ diện để cứu nguy trăm họ.
Ngày trở về, dân làng và học trò đã ra đón ông. Biết đây là những ngày cuối cùng được gặp thầy, dân làng đã làm lễ tế sống ông trong 3 ngày. Trước cảnh học trò vừa thắp hương vừa khóc, ông bình tĩnh căn dặn: “Thầy ra đi lần này sẽ bị thực dân Pháp giết. Sự nghiệp đền nợ nước của thầy còn dở dang.
Nhưng có ai hỏi, các con nói thầy theo cụ Đề Thám cứu dân cứu nước”. Khi Pháp đưa cụ từ Hà Đông về Hà Nội, tay mang gông không viết được, cụ đã lấy ngón chân dùng bút lông viết thư khuyên vợ nuôi con khôn lớn để các con có dịp trả thù nhà, đền nợ nước. Ông cởi áo gửi vợ cắt ra may áo cho con. Ở pháp trường ông bất ngờ xõa tung tóc, khiến tên đao phủ run rẩy chém mấy lần mới đứt. Cũng như Đồ Đàm, đầu bếp Hai Hiên trốn được nhưng trước lời đe dọa tiêu diệt dòng họ, ông quyết định xuất hiện về quê ở làng Cao Chung, huyện Hoài Đức.
Làng cũng làm lễ tế sống ông. Ông không khóc mà nuốt căm hờn nghẹn ngào nói: “Chỉ tiếc chưa diệt được kẻ thù!”. Cái chết của ông cứu được dòng họ nhưng vợ ông cũng bị tra tấn đến chết, em ruột bị lưu đày, người bà con là tri phủ Thanh Oai bị từ quan về làm ruộng, cả họ đành đổi họ để giấu tông tích. Trong số 4 vụ án này cả 3 người phụ nữ bị truy sát là vợ đầu bếp Hai Hiên, cô đồng Đa và cô chủ quán cơm 20 Cửa Nam, Nguyễn Thị Ba tức Nhiêu Sáu. Ngay sau ngày vụ Hà thành đầu độc bị bại lộ, bọn Pháp đã ập đến quán cơm 20 Cửa Nam.
Chồng trốn thoát nhưng bà Ba bị bắt. Chúng cho bà vào thùng gỗ có đóng đinh nhọn rồi lăn từ Cửa Nam về Hỏa Lò để thị uy. Trong tù mặc dù bị tra tấn rất dã man nhưng bà kiên quyết không khai báo và bà Ba bị chết trong trại giam. Một người cùng quê bán quán ở gần Hỏa Lò đã mua được cai ngục cho tráo xác đưa bà về yên nghỉ trong một nấm mồ không dám khắc bia ở làng Tương Mai.
Sự hy sinh cao cả của các liệt sỹ Anh hùng trong vụ Hà thành đầu độc thật không thể có ngòi bút nào tả xiết. Một bài vè do dân gian sáng tác thời đó đã nức nở khi viết:
“Một cơn gió táp mưa sa
Non sông nổi giận cỏ hoa đeo sầu
Vẳng tai nghe tiếng đài đầu
Tưởng hồn nghĩa liệt ở đâu ngang trời”.
(Còn nữa)
Nguyễn Gia Bào