Mới đây ông còn được vinh danh trong chương trình “Vinh quang Việt Nam” lần thứ XI – 2014.
50 năm… một chặng đường
Dáng vẻ hồng hào, gương mặt tươi tắn cùng cặp mắt tinh nhanh, tôi không nghĩ ông Thái Phụng Nê đã 78 tuổi. Càng không nghĩ rằng con người đang ở đoạn dốc của cuộc đời vẫn nay đây mai đó, từ Nho Quế (Hà Giang) cho đến đất mũi Cà Mau, nơi đâu cũng in dấu chân của người hết lòng vì nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao phó. Trong câu chuyện, ông kể chuyện mình thì ít mà nói về các công trình thủy điện thì nhiều.
Sinh năm 1936 tại Phú Yên, ông được gia đình cho ăn học đầy đủ. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, học tại hai trường danh tiếng ở phía Bắc là trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (Đô Lương, Nghệ An) và trường THCS Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh). Sau khi học xong và thi tốt nghiệp phổ thông, ông được đưa ra Hà Nội và cử đi học ở Liên Xô năm 1955. Đôi phút trải lòng về sự nghiệp, ông thấy mình là con người may mắn khi sự nghiệp học hành suôn sẻ.
28 tuổi, ông tốt nghiệp Phó Tiến sĩ tại Liên Xô về ngành Thủy công, tức là xây dựng công trình trên nước như cảng, đập, thủy điện. Nếu tính ra, trên cả nước, người gắn bó lâu dài nhất với ngành thủy điện chỉ có ông. Khi được hỏi về số lượng các công trình thủy điện đã tham gia, ông cho biết: “Không nhớ rõ bao nhiêu công trình, nhưng nhớ rõ 28 nhà máy có công suất lớn hơn 100kW là các công trình thủy điện cỡ trung và cỡ lớn, dưới nữa là thủy điện nhỏ có tới hàng trăm công trình. Tôi rất mừng đến năm 2016 sẽ hoàn thành xong công trình thủy điện Lai Châu một trong những công trình trọng điểm quốc gia và các công trình thủy điện cỡ trung và cỡ lớn, vậy là xong một đời công tác…”.
Trải dài trên mảnh đất hình chữ S, có biết bao nhiêu dự án thủy điện ông đều nắm trong lòng bàn tay. Ông hầu như tham gia tất cả các thủy điện, từ khâu lập dự án, thẩm định, phê duyệt, kiểm tra hiện trường. Hòa mình vào thời cuộc cách mạng, dấu ấn riêng trong ông đó là công trình thủy điện Hòa Bình, cách Hà Nội hơn 170km nhưng đường giao thông đi lại vô cùng khó khăn. Đặc biệt, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đời sống của cán bộ, công nhân nhà máy phải tăng gia sản xuất, nuôi bò, trồng rau. Suốt thời gian chiến tranh, địch ném bom dữ dội tàn phá công trường, mọi người vừa phải giấu thiết bị, vừa cầm súng đánh trả lại để hoàn thành đúng tiến độ công trình.
Thời đó, công trình thủy điện Hòa Bình do Liên Xô cử 700 chuyên gia và công nhân giúp đỡ xây dựng, khảo sát, thiết kế. Trong thời gian thi công, riêng số cán bộ công nhân lên đến 35.000 người, huy động sức mạnh của toàn dân. Lúc đó, Việt Nam chưa có thợ, do vậy công tác vận hành thiết bị các chuyên gia Liên Xô phải đào tạo. Và trường đào tạo công nhân tại chỗ ra đời. Không có tỉnh thành nào ở miền Bắc là không có thanh niên tham gia, học tập, trưởng thành từ công trình thủy điện Hòa Bình.
Ông gắn bó đầu tiên với nhà máy thủy điện Thác Bà trong suốt chặng đường 7 năm từ năm 1964. Cứ mỗi công trình thủy điện làm xong, bắt đầu phát điện tổ máy điện 1, ông lại được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ chỉ đạo tiếp tục xây dựng dự án công trình thủy điện khác như Hòa Bình, Yaly rồi Thác Mơ, Hàm Thuận – Đa Mi… nay lại thủy điện Sơn La, Lai Châu. 50 năm gắn bó với các công trình đã tôi luyện cho ông bản lĩnh vững vàng và kinh nghiệm về nghề.
| 78 tuổi vẫn đương nhiệm công tác |
Vi Giáng
Đường dẫn bài viết: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/chuyen-chua-ke-ve-lao-tuong-thuy-dien-son-la-68229.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.