Chuyện chưa kể về “lão tướng” thủy điện Sơn La

(PL&XH)-Dành nửa cuộc đời cho các công trình thủy điện, góp công đẩy nhanh tiến độ Dự án Thủy điện Sơn La – Lai Châu sớm 3 năm, tiết kiệm cho Nhà nước 10.000 tỷ đồng, ông Thái Phụng Nê đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Mới đây ông còn được vinh danh trong chương trình “Vinh quang Việt Nam” lần thứ XI – 2014.

50 năm… một chặng đường

Dáng vẻ hồng hào, gương mặt tươi tắn cùng cặp mắt tinh nhanh, tôi không nghĩ ông Thái Phụng Nê đã 78 tuổi. Càng không nghĩ rằng con người đang ở đoạn dốc của cuộc đời vẫn nay đây mai đó, từ Nho Quế (Hà Giang) cho đến đất mũi Cà Mau, nơi đâu cũng in dấu chân của người hết lòng vì nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao phó. Trong câu chuyện, ông kể chuyện mình thì ít mà nói về các công trình thủy điện thì nhiều.

Sinh năm 1936 tại Phú Yên, ông được gia đình cho ăn học đầy đủ. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, học tại hai trường danh tiếng ở phía Bắc là trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (Đô Lương, Nghệ An) và trường THCS Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh). Sau khi học xong và thi tốt nghiệp phổ thông, ông được đưa ra Hà Nội và cử đi học ở Liên Xô năm 1955. Đôi phút trải lòng về sự nghiệp, ông thấy mình là con người may mắn khi sự nghiệp học hành suôn sẻ.

28 tuổi, ông tốt nghiệp Phó Tiến sĩ tại Liên Xô về ngành Thủy công, tức là xây dựng công trình trên nước như cảng, đập, thủy điện. Nếu tính ra, trên cả nước, người gắn bó lâu dài nhất với ngành thủy điện chỉ có ông. Khi được hỏi về số lượng các công trình thủy điện đã tham gia, ông cho biết: “Không nhớ rõ bao nhiêu công trình, nhưng nhớ rõ 28 nhà máy có công suất lớn hơn 100kW là các công trình thủy điện cỡ trung và cỡ lớn, dưới nữa là thủy điện nhỏ có tới hàng trăm công trình. Tôi rất mừng đến năm 2016 sẽ hoàn thành xong công trình thủy điện Lai Châu một trong những công trình trọng điểm quốc gia và các công trình thủy điện cỡ trung và cỡ lớn, vậy là xong một đời công tác…”.

Trải dài trên mảnh đất hình chữ S, có biết bao nhiêu dự án thủy điện ông đều nắm trong lòng bàn tay. Ông hầu như tham gia tất cả các thủy điện, từ khâu lập dự án, thẩm định, phê duyệt, kiểm tra hiện trường. Hòa mình vào thời cuộc cách mạng, dấu ấn riêng trong ông đó là công trình thủy điện Hòa Bình, cách Hà Nội hơn 170km nhưng đường giao thông đi lại vô cùng khó khăn. Đặc biệt, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đời sống của cán bộ, công nhân nhà máy phải tăng gia sản xuất, nuôi bò, trồng rau. Suốt thời gian chiến tranh, địch ném bom dữ dội tàn phá công trường, mọi người vừa phải giấu thiết bị, vừa cầm súng đánh trả lại để hoàn thành đúng tiến độ công trình.

Thời đó, công trình thủy điện Hòa Bình do Liên Xô cử 700 chuyên gia và công nhân giúp đỡ xây dựng, khảo sát, thiết kế. Trong thời gian thi công, riêng số cán bộ công nhân lên đến 35.000 người, huy động sức mạnh của toàn dân. Lúc đó, Việt Nam chưa có thợ, do vậy công tác vận hành thiết bị các chuyên gia Liên Xô phải đào tạo. Và trường đào tạo công nhân tại chỗ ra đời. Không có tỉnh thành nào ở miền Bắc là không có thanh niên tham gia, học tập, trưởng thành từ công trình thủy điện Hòa Bình.

Ông gắn bó đầu tiên với nhà máy thủy điện Thác Bà trong suốt chặng đường 7 năm từ năm 1964. Cứ mỗi công trình thủy điện làm xong, bắt đầu phát điện tổ máy điện 1, ông lại được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ chỉ đạo tiếp tục xây dựng dự án công trình thủy điện khác như Hòa Bình, Yaly rồi Thác Mơ, Hàm Thuận – Đa Mi… nay lại thủy điện Sơn La, Lai Châu. 50 năm gắn bó với các công trình đã tôi luyện cho ông bản lĩnh vững vàng và kinh nghiệm về nghề.



Nỗi đau mất người con trai duy nhất

Lập gia đình khá muộn, ông kể, mỗi năm chỉ có 10 ngày phép, hơn nữa cái nghề kỹ sư cứ xách ba lô nay đây mai đó thì rất khó lấy vợ. Vừa kể, ông vừa tếu táo: “Tuổi trẻ đi đâu đều có các cô theo. Nhưng đó chỉ là câu chuyện làm quà, riêng quan điểm nhân duyên đối với ông thật kỳ lạ. Với ông, kết duyên vợ chồng phải đảm bảo hạnh phúc cho gia đình”.

Mãi đến năm 1973, khi hoàn thành xong công trình thủy điện Thác Bà và đang chuẩn bị dự án thủy điện Hòa Bình, ông kết hôn với người vợ (quê Thái Bình) công tác cùng ngành, kém ông 10 tuổi. Bà là người đảm đang, tháo vát.

Nhắc đến người vợ yêu dấu đã mất cách đây 6 năm vì căn bệnh ung thư quái ác, giọng ông trầm xuống. “Đối với người vợ, tôi luôn dành tình cảm thiêng liêng nhất, bởi có được thành công như bây giờ, bà ấy đã phải ghìm chặt những nỗi vất vả để tạo điều kiện cho chồng đi làm. Khi tôi được phân công làm Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, dù bà chưa đủ tuổi về hưu cũng xin về hưu trước tuổi để theo giúp đỡ tôi mọi công việc. Không có người đàn ông nào làm nên sự nghiệp mà phía sau không có bóng dáng một người phụ nữ” – ông Nê tâm sự.

Ngắt quãng một hồi lâu, ông kể lại nỗi niềm của cuộc đời. Ông có 3 người con (2 gái, 1 trai) nhưng đứa con trai đã mất trong một tình huống oái oăm. Nuốt nước mắt nghẹn đắng vào lòng, ông kể lại nỗi đau mất người con trai duy nhất của mình. Đến bây giờ, ông vẫn ngỡ nó chưa xảy ra. Năm 1989, thời điểm đó là 10g sáng, tại khu tập thể cả nhà đi vắng, cậu con trai 16 tuổi đang học lớp 11 ở nhà. Lợi dụng cả nhà đi vắng, tên trộm nói dối cậu con trai ông là bạn của chị gái, ở Hòa Bình mới xuống Hà Nội để gửi quà của ông về. Tin lời kẻ trộm, cậu con trai mở cửa cho vào. Khi đột nhập vào nhà, trong lúc không để ý, tên đầu trộm đuôi cướp giết chết cậu con trai.

Trong căn nhà rộng chừng 10m2, nhìn đứa con trai bị giết, vợ ông ngất lịm. Đến tận bây giờ, ông không lúc nào thôi day dứt và ám ảnh, nỗi đau mất con. “Sau khi biết tin con trai bị giết, sau 9 ngày tên trộm giết người bị bắt. Tên trộm khai là lấy trộm cái đầu máy khâu, đồng hồ, nhẫn vàng... và những đồ đạc nhỏ nhặt của gia đình. Giá như lúc đó, có người ở nhà có thể cho luôn tên trộm đồ đạc để cứu con”, ông nhớ lại.

Nhưng ông trời không phụ lòng thương khi 2 con gái ông đều thành đạt. Cô con gái lớn đang làm bác sĩ BV TCty Vận tải quốc gia, còn con gái út đang là chuyên viên Ban tài chính Tập đoàn Điện lực. Với ông, hạnh phúc cuộc đời là góp sức nhỏ bé của mình vào xây dựng và phát triển đất nước vững mạnh.

78 tuổi vẫn đương nhiệm công tác

Có lẽ, rất ít những kỹ sư thủy điện như ông, được giao nhiều trọng trách ngay cả khi quá tuổi về hưu. Ông kể lại: “Năm 1992, Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ, Bộ trưởng Bộ Năng lượng (cũ) tham gia chỉ đạo xây dựng đường dây 500kV mạch 1. Sau khi hoàn thành, giao vị trí chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn Điện lực Việt Nam. Năm 1998-1999, ông làm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp 1 năm. Năm 2001 làm Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên. Một may mắn trong đời, là đến tuổi nghỉ hưu, lãnh đạo TƯ giao cho ông nhiệm vụ làm Phái viên chủ chốt của Thủ tướng Chính phủ phụ trách là Phó ban chỉ đạo Nhà nước, dự án quốc gia để chỉ đạo công trình thủy điện Sơn La trong suốt thời gian từ năm 2001 – 2013, và hiện tại ông được Thủ Tướng giao nhiệm vụ khảo sát, kiểm tra các dự án đang xây dựng thủy điện từ Bắc đến Nam”.


Vi Giáng

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.