Đề xuất quy định mới về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng là hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang dự thảo Thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng là hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô.
Đề xuất quy định mới về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng là hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô
Đề xuất quy định mới về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng là hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô. Ảnh minh họa

Yêu cầu đối với hệ thống kiểm soát nội bộ

Theo dự thảo, hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng được xây dựng phù hợp với quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng, Thông tư này và các quy định của pháp luật có liên quan và được tổ chức thực hiện nhằm kiểm soát, phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra. Hệ thống kiểm soát nội bộ thực hiện giám sát của quản lý cấp cao, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro và kiểm toán nội bộ.

Theo dự thảo, hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau: Hiệu quả và an toàn trong hoạt động; bảo vệ, quản lý, sử dụng an toàn, hiệu quả tài sản và các nguồn lực; hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực, hợp lý, đầy đủ và kịp thời; tuân thủ pháp luật và các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ. Đồng thời, phù hợp với quy mô, điều kiện và mức độ phức tạp trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; có đủ nguồn lực về tài chính, con người, công nghệ thông tin để đảm bảo hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ; xây dựng, duy trì văn hóa kiểm soát, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho tổ chức tín dụng.

Tổ chức tín dụng phải có các quy định nội bộ theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó phải đảm bảo:

Phù hợp với quy định tại Thông tư này và quy định của pháp luật có liên quan.

Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên ban hành quy định về tổ chức, quản trị và hoạt động của tổ chức tín dụng, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội thành viên, chủ sở hữu; Ban kiểm soát ban hành quy định nội bộ của Ban kiểm soát; Tổng giám đốc (Giám đốc) ban hành các quy chế, quy trình, thủ tục tác nghiệp (quy trình nội bộ);

Đáp ứng các yêu cầu và nội dung về hoạt động kiểm soát theo quy định.

Được đánh giá định kỳ theo quy định tại Thông tư này và quy định của tổ chức tín dụng về tính thích hợp, tuân thủ quy định của pháp luật và sửa đổi, bổ sung (nếu cần thiết).

Hệ thống kiểm soát nội bộ phải có 3 tuyến bảo vệ độc lập như sau:

Tuyến bảo vệ thứ nhất có chức năng nhận dạng, kiểm soát và giảm thiểu rủi ro do các bộ phận sau thực hiện: Các bộ phận kinh doanh (bao gồm cả bộ phận phát triển sản phẩm), các bộ phận có chức năng tạo ra doanh thu khác; các bộ phận có chức năng thực hiện các quyết định có rủi ro; các bộ phận có chức năng phân bổ hạn mức rủi ro, kiểm soát rủi ro, giảm thiểu rủi ro (thuộc bộ phận kinh doanh hoặc bộ phận độc lập) đối với từng loại hình giao dịch, hoạt động kinh doanh; Bộ phận nhân sự, bộ phận kế toán.

Tuyến bảo vệ thứ hai có chức năng xây dựng chính sách quản lý rủi ro, quy định nội bộ về quản trị rủi ro, đo lường theo dõi rủi ro và tuân thủ quy định pháp luật do các bộ phận sau đây thực hiện: Bộ phận tuân thủ; Bộ phận quản lý rủi ro.

Tuyến bảo vệ thứ ba có chức năng kiểm toán nội bộ do bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng và Thông tư này.

Dự thảo nêu rõ, ý kiến thảo luận và kết luận về hệ thống kiểm soát nội bộ trong cuộc họp của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban nhân sự (nếu có) phải được lập thành biên bản, trong đó nêu rõ ý kiến thống nhất, không thống nhất của từng thành viên.

Việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức kiểm toán độc lập (nếu có) được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Báo cáo Ngân hàng Nhà nước về hệ thống kiểm soát nội bộ

Tổ chức tín dụng phải lập báo cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ theo các phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này, bao gồm: Báo cáo hằng năm về kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro (Phụ lục số 01); Báo cáo hằng năm về kiểm toán nội bộ (Phụ lục số 02); Báo cáo đột xuất về kiểm toán nội bộ (nếu có).

Báo cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ phải cập nhật các tồn tại, hạn chế, rủi ro phát sinh (nếu có) trong toàn bộ tổ chức tín dụng (bao gồm các bộ phận tại trụ sở chính; chi nhánh; điểm giao dịch và các đơn vị phụ thuộc khác của tổ chức tín dụng).

Thời hạn gửi báo cáo:

Báo cáo hằng năm về kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro: Trong thời hạn 45 ngày từ ngày kết thúc năm tài chính.

Báo cáo hằng năm về kiểm toán nội bộ: Trong thời hạn 60 ngày từ ngày kết thúc năm tài chính.

Báo cáo đột xuất về kiểm toán nội bộ (nếu có): Trong thời hạn 15 ngày làm việc từ ngày kết thúc kiểm toán nội bộ đột xuất (bao gồm việc phê duyệt của Ban Kiểm soát).

Thời hạn chốt số liệu báo cáo là thời điểm kết thúc năm tài chính.

Báo cáo được lập bằng văn bản, gửi trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính tới Ngân hàng Nhà nước (Cục Quản lý, giám sát tổ chức tín dụng) đối với ngân hàng hợp tác xã, tổ chức tài chính vi mô, tới Ngân hàng Nhà nước Khu vực nơi đặt trụ sở chính đối với Quỹ tín dụng Nhân dân.

Quy định mới phát hành chứng chỉ tiền gửi trong nước của tổ chức tín dụng
Kích hoạt xung lực mới cho tăng trưởng kinh tế
Hồ sơ đề nghị chấp thuận chuyển đổi hình thức pháp lý của tổ chức tín dụng có thể nộp trực tuyến

Phú An

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.