Án lệ số 70/2023/AL:

Chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách

Án lệ số 70/2023/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND TC thông qua vào ngày 18/8/ 2023 và được công bố theo Quyết định số 364/QĐ-CA ngày 1/10 /2023 của Chánh án TAND TC. Áp dụng từ ngày 1/11/2023.
Ảnh minh hoạ: N.N
Ảnh minh hoạ: N.N

Lý do khởi kiện

Nguyên đơn ông Vương Quốc A trình bày, ông được Công ty (Cty) TNHH K Việt Nam nhận vào làm việc từ tháng 3/2015, thử việc 1 tháng, sau đó giao kết hợp đồng lao động thời hạn 12 tháng. Sau khi hết hạn hợp đồng, Cty gia hạn đến ngày 25/11/2016.

Quá trình làm việc, ông A hoàn thành nhiệm vụ, không bị xử lý kỷ luật. Ngày 25/11/2016, Cty giao cho ông Quyết định số 05/2016/QĐNV-KD chấm dứt hợp đồng lao động với lý do hết hạn hợp đồng lao động, lúc này ông đang là Chủ tịch Công đoàn cơ sở của Cty. Nhận thấy Cty chấm dứt hợp đồng lao động không đúng, ông khởi kiện yêu cầu Cty nhận ông trở lại làm việc, thanh toán tiền lương và bồi thường các khoản tổng cộng hơn 327 triệu đồng.

Trong khi đó, người đại diện phía bị đơn nêu, trước khi hợp đồng lao động hết hạn ngày 24/3/2016, Cty ban hành Quyết định số 03/2016/QĐNV-KD không tái ký hợp đồng lao động với ông A. Cty gia hạn hợp đồng lao động với ông A từ ngày 26/4/2016 đến ngày 25/11/2016 (hết nhiệm kỳ Ban chấp hành công đoàn). Ngày 24/10/2016, Cty tiếp tục ban hành quyết định không tái ký hợp đồng lao động với ông A, gửi cho ông A và Công đoàn khu công nghiệp B.

Sau đó, Cty biết được Ban chấp hành công đoàn cơ sở tiến hành đại hội và bầu ông A làm Chủ tịch công đoàn. Cty gửi văn bản đến Công đoàn khu công nghiệp B về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông A nhưng không được chấp nhận. Cty tiếp tục gửi văn bản đến Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai được hướng dẫn theo quy định của pháp luật. Do Cty chấm dứt hợp đồng lao động với ông A đúng quy định nên không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của ông.

Tại Bản án sơ thẩm số 21/2019/LĐ-ST ngày 21/11/2019, Tòa án Nhân dân (TAND) TP Biên Hòa quyết định, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vương Quốc A về việc “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” với Cty. Ngày 5/12/2019, ông A kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án phúc thẩm số 19/2020/LĐ-PT ngày 30/7/2020, TAND tỉnh Đồng Nai chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Vương Quốc A, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm; buộc Cty K phải trả tổng cộng (tiền lương trong thời gian ông Vương Quốc A không được làm việc từ ngày 25/11/2016 đến ngày tòa án xét xử sơ thẩm 21/11/2019; bồi thường 2 tháng tiền lương do Cty đơn phương chấm dứt hợp đồng) hơn 216 triệu đồng.

Cty phải truy đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông A đầy đủ từ tháng 11/2016 đến tháng 11/2019, mức lương làm căn cứ đóng là 5,733 triệu đồng/tháng. Sau đó, Cty yêu cầu xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 01/2022/KN-LĐ ngày 22/4/2022, Chánh án TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh kháng nghị bản án lao động phúc thẩm nêu trên, đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm số 19/2020/LĐ-PT ngày 30/7/2020 của TAND tỉnh Đồng Nai, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 21/2019/LĐ-ST ngày 21/11/2019 của TAND TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Hợp đồng lao động chỉ còn thời hạn 1 tháng

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tòa nhận định, ông A và Cty ký Hợp đồng lao động số 15/HĐLĐ/KD.14 ngày 25/4/2015, thời hạn 12 tháng, hết hạn ngày 25/4/2016. Trong thời gian hợp đồng lao động có hiệu lực, Công đoàn cơ sở Cty K được thành lập và ông Vương Quốc A được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành lâm thời theo Quyết định số 111/QĐCN-CĐKCN ngày 25/11/2015, thời hạn 12 tháng để tiến hành đại hội bầu Ban chấp hành công đoàn cơ sở trước ngày 25/11/2016.

Vì vậy, Cty K và ông A ký Văn bản thỏa thuận số 137/HĐLĐ/KD.16 về việc gia hạn hợp đồng lao động của ông A đến ngày 25/11/2016, trong đó ghi rõ “Gia hạn thời gian tới khi kết thúc nhiệm kỳ Ban chấp hành công đoàn 25/11/2015-25/11/2016”. Thỏa thuận gia hạn hợp đồng lao động nêu trên là phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 192 Bộ luật Lao động năm 2012 và Điều 25 Luật Công đoàn 2012.

Song song với việc gia hạn hợp đồng lao động với ông A cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Ban chấp hành công đoàn như đã nêu trên, Cty có nhiều văn bản thông báo cho ông A và Công đoàn khu công nghiệp B biết sẽ không tái ký hợp đồng lao động với ông A sau khi hết thời hạn gia hạn.

Tại thời điểm ngày 24/10/2016, khi Ban Chấp hành công đoàn lâm thời tiến hành Đại hội thì hợp đồng lao động của ông A chỉ còn thời hạn 1 tháng, nhưng ông A và Công đoàn khu công nghiệp vẫn đưa ông A vào danh sách bầu cử Ban chấp hành công đoàn cơ sở để bầu là không phù hợp với Hướng dẫn số 398/HD/TLĐ ngày 28/3/2012 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Do đó, việc ông A trúng cử Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở Cty K nhiệm kỳ 2016-2021 và được Công đoàn khu công nghiệp ban hành Quyết định số 138/QĐCN-CĐKCN ngày 27/10/2016 công nhận là không hợp lệ về tiêu chuẩn người ứng cử, người trúng cử.

Sau khi hết thời hạn gia hạn hợp đồng lao động, Cty ban hành Quyết định số 05/2016/QĐNV-KD ngày 25/11/2016 chấm dứt hợp đồng lao động với ông A là đúng quy định tại khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012. Do đó, việc ông A khởi kiện cho rằng, việc Cty K ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với ông trái pháp luật là không có cơ sở chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A là không đúng quy định của pháp luật.

Do đó, toà chấp nhận Kháng nghị số 01/2022/KN-LĐ ngày 22/4/2022 của Chánh án TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh; hủy Bản án phúc thẩm số 19/2020/LĐ-PT ngày 30/7/2020 của TAND tỉnh Đồng Nai, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 21/2019/LĐ-ST ngày 21/11/2019 của TAND TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nội dung án lệ:

Tại thời điểm ngày 24/10/2016, khi Ban chấp hành công đoàn lâm thời tiến hành đại hội thì hợp đồng lao động của ông A chỉ còn thời hạn 1 tháng, nhưng ông A và Công đoàn khu công nghiệp vẫn đưa ông A vào danh sách bầu cử Ban chấp hành công đoàn cơ sở để bầu là không phù hợp... Do đó, việc ông A trúng cử Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở Cty K nhiệm kỳ 2016-2021 và được Công đoàn khu công nghiệp ban hành Quyết định số 138/QĐCN-CĐKCN ngày 27/10/2016 công nhận là không hợp lệ về tiêu chuẩn người ứng cử, người trúng cử.

Sau khi hết thời hạn gia hạn hợp đồng lao động, Cty K ban hành Quyết định số 05/2016/QĐNV-KD ngày 25/11/2016 chấm dứt hợp đồng lao động với ông A là đúng quy định tại khoản 1 Điều 36 của Bộ luật Lao động. Do đó, việc ông A khởi kiện cho rằng, việc Cty K ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với ông trái pháp luật là không có cơ sở chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A là không đúng quy định của pháp luật.

Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng khiến người mua nhà luôn "nhận" phần thiệt
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
3 nhóm lao động được nhận tiền hỗ trợ từ 1-3 triệu đồng

Bảo Lâm

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.