(PL&XH) -Khi đang khát khao chờ đợi một phép màu nhiệm đến với mình, để không phải đối diện với cái chết thì Đặng Văn Thế, SN 1974, trú tại xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An lại phải chấp nhận một sự thật đau đớn.
Ngày được gặp vợ cũng chính là ngày Thế phải nhận thêm bản án "tử hình" của con tim…
Tấm lòng người "cha" đáng kính…
Trong những khoảnh khắc cô đơn, lạnh lẽo của cuộc đời ấy và tưởng chừng không vượt qua thì chính tôi đã được Ban giám thị trại giam tạo điều kiện, thường xuyên vào thăm, động viên khi biết tâm trạng của tôi gần như sụp đổ. Cái việc chia sẻ giữa một cán bộ cao nhất trại tạm giam với một tử tù như tôi có lẽ thật khó khăn, ấy vậy mà nó đã trở nên thật gần gũi, thân thiết. Qua những lần trò chuyện, tâm sự thật hiếm hoi của tôi với ông, Giám thị trại tạm giam Hoàng Tuấn Tú biết tôi sống nặng lòng về tình cảm nên ông thỉnh thoảng xuống "xà lim" trực tiếp động viên tôi với lời lẽ rất chân tình.
Đối với kẻ lầm đường lạc lối như tôi, ông ấy lúc đó chẳng khác nào một người cha, khiến tôi có một ước muốn được gục đầu vào lòng ông để được khóc, được giãi bày… Thời khắc đó, ông là chỗ dựa tinh thần cho tôi chia sẻ những vui buồn, những suy nghĩ xuất phát từ chính đáy lòng mình trong những ngày chờ đợi quyết định cuối cùng của Chủ tịch nước. Ông ấy lúc đó như là người cha của tôi, không hề phân biệt, kỳ thị với tôi, với tử tù này… Ông ấy thường bảo tôi rằng: "Anh có tội với pháp luật, thì phải chịu tội với pháp luật. Chúng tôi chỉ là người canh "kho" cho pháp luật mà thôi. Chúng tôi coi anh như một đứa con lạc lối. Vì thế, giúp được các anh điều gì mà lương tâm cho phép và không vi phạm pháp luật thì chúng tôi sẽ làm…". Từ những tình cảm ân tình ấy mà tôi đã dần thay đổi cách nghĩ, cách nhìn với họ.
Trong lòng tôi lúc ấy đã dành cho ông một sự kính trọng và hàm ơn lớn. Tôi còn nhớ rất rõ, vào một chiều thu, cơn mưa xối xả dội xuống phòng biệt giam, nơi đó có tôi. Cơn mưa đó đã làm lòng tôi trĩu nặng, nhớ nhà, nhớ bố mẹ già, nhớ người vợ tần tảo mới cưới được 40 ngày khiến tâm trạng tôi bất an. Vì thế, tôi đã khóc, gào thét trong cái phòng biệt giam lạnh lẽo.
Nhưng lúc đó, ông biết tin đã đội mưa vào hẳn phòng biệt giam thăm và động viên tôi. Ông ấy bảo: "Nếu thương bố mẹ, thì hãy chấp hành thật tốt để chờ mong chờ sự khai ân của Chủ tịch nước. Chỉ có sự khai ân của Chủ tịch nước, anh mới có ngày được tạ tội với mẹ cha và gia đình…". Từ câu nói hết sức chân tình và nhân ái đó, tôi đã kìm nén được nỗi đau và sự bi quan tột độ của mình. Ngay đêm đó, tôi đã làm thơ: "Chiều thu ban Tú vào thăm Thế/ Ban bảo mai này chắc được tha/ Đừng có bi quan mà làm bậy/ Kẻo rồi ân hận đấy con à!".

Ảnh minh họa
Trả tự do cho người yêu
Từ đêm đó, tôi đã lạc quan hơn rất nhiều. Tôi đã tự nhủ với lòng mình rằng không làm phiền ông ấy thêm một lần nữa. Có lẽ cuộc đời tôi như một định mệnh, bởi tôi biết điều ấy sớm muộn gì cũng đến nhưng tôi không nghĩ nó lại đến sớm như vậy bởi tôi vẫn tin vào sự ân xá của Chủ tịch nước và thời gian đó vẫn chưa có quyết định cuối cùng. Nhưng cái ngày định mệnh ấy, 15-7-2000, sau hơn 2 năm nhận án tử hình, cái ngày mà đến giờ tôi vẫn chưa thể quên và sẽ không thể quên được. Cái ngày tôi nhận bản án tử hình thứ 2, "bản án tử hình dành cho con tim". Sáng sớm hôm ấy, trời mưa rất lớn, cơn mưa đổ xuống đã khiến cho con đường từ phòng biệt giam đến phòng tiếp dân của trại tạm giam ngập lớn.
Sau khi cơn mưa lớn qua đi, tôi được cán bộ quản giáo thông báo là ra gặp gia đình. Tôi mừng quýnh và cuống cuồng mặc bộ quần áo được vợ may trong ngày cưới, rồi khấp khởi vui vui, mừng mừng theo chân cán bộ trực trại. Trên đường đi, tâm trạng của tôi càng vui hơn khi cán bộ thông báo được ra gặp vợ. Nét mặt tôi lúc đó rạng ngời, chẳng khác gì "nắng hạn gặp mưa rào". Tôi được cán bộ dẫn vào phòng thăm gặp số 2 và bóng dáng quen thuộc, vợ tôi đã đứng sẵn ở đó. Có một điều rất trùng hợp rằng, hôm đó vợ tôi cũng mặc chính bộ quần áo mà tôi đã may cho cô ấy trong ngày cưới.
Ngồi được ít phút, tôi mừng mừng tủi tủi. Cô ấy có phần khác hơn những lần gặp trước, sau khi hỏi thăm sức khỏe của tôi, trên gò má cao của cô ấy hai hàng lệ bắt đầu tuôn trào. Hàng lệ ấy khiến tôi càng rối bời hơn, bởi tôi nghĩ cô ấy khóc vì thương tôi, vì lo cho cuộc sống của tôi đang phải đếm từng ngày. Nhưng thật đắng cay cho cuộc đời tôi bởi những giọt nước mắt ấy chỉ là "khúc dạo đầu" cho "bản án tử hình" mà cô ấy bắt đầu tuyên cho chính tôi, người đang cần cô ấy hơn bao giờ hết.
Tôi nghe cô ấy nói mà tai như ù đặc, không thể nghe thêm được nữa và rồi sau phút choáng váng ấy, tôi cố tĩnh tâm để thực thi phận sự của mình là đặt bút ký vào đơn ly hôn. Thế là chấm hết, trên đường từ phòng thăm gặp về phòng biệt giam, lòng tôi nặng trĩu. Xách túi quà của vợ trên tay mà tôi có cảm giác như xách một thứ gì đó rất nặng nề. Hôm đó, khác với những lần thăm gặp trước, tôi không mở túi quà để chia sẻ cho các bạn tử tội mà chỉ mời họ điếu thuốc rồi lặng lẽ vào phòng biệt giam của mình nằm.
Trong lòng tôi hôm ấy có những cảm giác thật khó tả. Tôi vui vì đã mang đến tự do cho em, mang tự do đến cho người tôi đã thương yêu nhưng ngược lại cũng rất buồn vì tôi đã bị mất đi chỗ dựa tinh thần lớn nhất của cuộc đời mình lúc này. Tối hôm ấy, nghĩ đến sự cô đơn sẽ gặm nhấm tâm hồn tôi trong những ngày còn lại của kẻ tử tội là tôi không thể chịu nổi. Tôi như con thú lên cơn, đập nát túi quà mà cô ấy mang vào. Đêm hôm ấy, tôi như một kẻ điên loạn. Tôi hét tên cô ấy trong đêm khuya thanh vắng. Rồi những điều đó của tôi lại đến tai ông Giám thị trại tạm giam.
Sáng hôm sau, khi cánh cửa phòng biệt giam vừa mở thì tôi đã thấy ông đứng đó từ lúc nào. Với khuôn mặt phúc hậu và nụ cười hiền từ, ông ấy đã từ tốn chia sẻ và hỏi thăm tôi về câu chuyện gặp vợ sáng hôm trước. Biết chuyện, ông ấy đã ôn tồn nói với tôi: "Ở tuổi anh và đang ở vào hoàn cảnh này, sự ra đi của cô ấy, đau khổ là điều không thể tránh khỏi, nhưng không vì thế mà đánh mất đi niềm tin. Cô ấy đã không còn nghĩ đến mình, thì mình cũng không nên quá đau khổ vì cô ấy. Hơn nữa, sự giải phóng cho cô ấy sẽ làm cho anh thanh thản hơn. Là đàn ông, đừng tiếc nuối những gì không còn là của mình…".
Nghe vậy, dù rất sốc, nhưng tôi đã gắng vượt qua và đã có những suy nghĩ chín chắn hơn rất nhiều. Hành động đầu tiên sau cú sốc ấy, tôi đã viết hai lá đơn bỏ sẵn vào trong gối (một lá đơn tố giác thêm tội phạm và một lá đơn xin được tự nguyện hiến xác cho khoa học). Lòng tôi lúc ấy nghĩ rằng nếu Chủ tịch nước bác đơn thì tôi sẽ nộp đơn khai thêm tội phạm. Nếu không được chấp thuận, tôi sẽ tiếp tục nộp đơn xin hiến xác cho khoa học để có thể làm được một việc có ích trước khi bị đền tội. Nhưng ý định đó của tôi ngay sau đó đã bị lộ…
(Còn nữa)
(Ghi theo lời tự sự của Đặng Văn Thế, tử tù bị "lãng quên" 11 năm trong phòng biệt giam).
Phương Tâm