Mô hình khu công nghiệp sinh thái sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế

Triển khai mô hình Khu công nghiệp (KCN) sinh thái sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội trong các hoạt động công nghiệp tại Việt Nam. Mô hình này gắn chặt với việc sử dụng hiệu quả tài nguyên, sản xuất sạch hơn và cộng sinh công nghiệp.

Ban quản lý Dự án “Triển khai KCN sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình KCN sinh thái toàn cầu”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa phối hợp với Trung tâm sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) tiếp tục tổ chức các nội dung Hội thảo này, với sự tham gia của hơn 60 đại biểu đến từ Ban quản lý các KCN Đồng Nai, Ban quản lý KCN Amata, các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, một số tổ chức quốc tế, hiệp hội tại Việt Nam, các chuyên gia trong và ngoài nước.

Mô hình khu công nghiệp sinh thái sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế
Ông Lê Xuân Thịnh (ngồi giữa) - Giám đốc VNCPC chủ trì hội thảo

Hội thảo nhằm mục đích nâng cao năng lực về Hiệu quả tài nguyên, Sản xuất sạch hơn (RECP) và Cộng sinh công nghiệp cho cán bộ quản lý KCN và cán bộ kỹ thuật, quản lý sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN để hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng tài nguyên, năng lượng hiệu quả và giảm ô nhiễm môi trường, góp phần xây dựng, phát triển KCN sinh thái điển hình của địa phương. Từ đó, các cán bộ kỹ thuật và quản lý của công ty để có thể duy trì kết quả dự án sau khi hỗ trợ kỹ thuật kết thúc.

Hội thảo tiếp tục khẳng định vai trò của khu công nghiệp (KCN) sinh thái trong các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) 2030 của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo đó, triển khai mô hình KCN sinh thái sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội trong các hoạt động công nghiệp tại Việt Nam; đồng thời là tiền đề cho việc xây dựng cơ chế, chính sách về KCN sinh thái, cũng như lồng ghép trong các quy định của pháp luật về môi trường, công nghiệp và các chính sách có liên quan tại Việt Nam.

Vai trò đồng hành của Dự án trong chuyển đổi KCN sinh thái

Với mong muốn nhận được sự hợp tác của Dự án và các bên liên quan để việc chuyển đổi KCN sinh thái diễn ra thuận lợi, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao, ông Phạm Anh Tuấn, đại diện KCN Amata (Đồng Nai) đề nghị Dự án và các bên liên quan thực hiện tốt vai trò cụ thể.

Mô hình khu công nghiệp sinh thái sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế
Ông Phạm Anh Tuấn – đại diện BQL KCN Amata (Đồng Nai)

Đối với cơ quan quản lý nhà nước cũng như các tổ chức liên kết, hỗ trợ thực hiện KCN sinh thái, ông Tuấn cho rằng, cần tăng cường truyền thông về KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái, qua đó giúp cho cộng đồng dân cư cũng như doanh nghiệp dễ dàng thuận lợi tiếp cận thị trường, khách hàng; cần có cơ chế quy định rõ ràng và có tính khả thi đối với việc tái chế, tái sử dụng chất thải, biến chất thải của doanh nghiệp này thành nguồn nguyên liệu của các ngành sản xuất khác, và tốt nhất là trong các doanh nghiệp trong cùng một KCN; có cơ chế ưu đãi hơn về thuế đất, tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi để đầu tư sản xuất, thay đổi công nghệ, phục vụ việc chuyển đôi thành KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái đối với các doanh nghiệp tham gia vào Dự án.

Đối với các tổ chức tư vấn, chuyên gia, ông Tuấn mong được các đơn vị hỗ trợ công tác khảo sát, kiểm toán năng lượng, đánh giá quy trình công nghệ để qua đó giúp cho các doanh nghiệp phát hiện được các cơ hội sản xuất sạch hơn, có khả năng cộng sinh công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong cùng một KCN; tư vấn, đào tạo cho doanh nghiệp về nhận thức lợi ích của việc chuyển đổi sang KCN sinh thái.

Về kế hoạch và những hoạt động hỗ trợ tiếp theo của Dự án, ông Alessandro cho biết, Dự án sẽ xây dựng và triển khai các can thiệp về sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn của các KCN thí điểm trong Dự án, tiến hành đánh giá các hiệu suất, các công năng của KCN và xác định những cơ hội để có thể xây dựng các KCN sinh thái tại Việt Nam; tổ chức cho các Công ty tham gia vào các hội thảo chuyên sâu về RECP, tiến hành đánh giá, thảo luận về RECP. Về mặt cơ bản là “lắp ghép” vào Công ty để thảo luận RECP và cộng sinh công nghiệp. từ đó xác định các can thiệp về sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn với các chi phí thấp. Tiếp theo là xây dựng và triển khai các can thiệp; có những hội thảo tập huấn nhằm xây dựng các phương án cộng sinh công nghiệp khác nhau.

Mô hình khu công nghiệp sinh thái sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế
Ông Alessandro - điều phối viên Dự án UNIDO phát biểu tại Hội thảo trực tuyến

"Dự án sẽ hỗ trợ hiệu quả cho các Ban Quản lý các KCN để thực hiện đáp ứng các tiêu chí của RECP. Trong năm 2022, Dự án sẽ triển khai và can thiệp RECP với sự hỗ trợ của các chuyên gia trong và ngoài nước sẽ tiến hành theo dõi các tác động của các can thiệp, cũng như những can thiệp đã thực hiện, sau đó xây dựng một kế hoạch khả thi cho RECP để triển khai thực hiện. Tất cả các hoạt động này phải được thực hiện với sự tham gia tích cực của các Công ty", ông Alessandro nhấn mạnh.

Ông Alessandro cũng khẳng định, Dự án cam kết sẽ giúp các công ty hỗ trợ kỹ thuật (chuyển đổi phương thức sản xuất) và có các cơ hội được tiếp cận được với các nguồn tài chính, các quỹ tài chính xanh ở Việt Nam nhằm thực hiện các giải pháp này, góp phần mang lại cơ hội và lợi ích cho doanh nghiệp, cộng đồng và xã hội. Dự án cũng sẽ đẩy mạnh công tác truyền thông cho các cơ quan liên quan, các tổ chức, hiệp hội, báo chí, truyền thông… bằng việc tổ chức các sự kiện (hội nghị, hội thảo, viết bài tuyên truyền…) nhằm nâng cao nhận thức hơn nữa về KCN sinh thái

Triển khai RECP – Chỉ có bắt đầu, không có kết thúc

Đây là nhận định của ông Đinh Mạnh Thắng – chuyên gia của VNCPC khi trình bày chi tiết về phương pháp tiếp cận RECP trong công nghiệp (bao gồm tổng quan về RECP; phương pháp luận RECP và áp dụng triển khai trong thực tế; các bước trong đánh giá RECP tại hiện trường; các tiềm năng RECP về tiết kiệm nguyên vật liệu, điện nước… trong công nghiệp).

Ông Thắng cho rằng, nhằm nâng cao việc sử dụng hiệu quả năng tài nguyên tại doanh nghiệp, thì phương pháp tiếp cận RECP là một hướng đi cần thiết. RECP đòi hỏi việc áp dụng liên tục các chiến lược môi trường phòng ngừa vào các quá trình, sản phẩm và dịch vụ nhằm tăng hiệu quả và giảm thiểu rủi ro đối với con người và môi trường.

Về lợi ích, RECP giúp giải quyết ba khía cạnh bền vững riêng lẻ và đồng bộ, bao gồm: Nâng cao hiệu quả kinh tế thông qua việc sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả; bảo vệ môi trường bằng cách bảo tồn tài nguyên và giảm thiểu tác môi; nâng cao đời sống xã hội bằng cách cung cấp việc làm và bảo vệ cuộc sống của người lao động và cộng đồng địa phương.

Ông Thắng tiếp tục chia sẻ, thực trạng hiện nay tại một số doanh nghiệp còn thiếu sự quan tâm đến quản lý các định mức tiêu thụ nhiên liệu, điện, nước; chưa kiểm soát tốt các quá trình sản xuất, các thiết bị phụ trợ, như: lò hơi, máy nén khí dẫn đến việc quản lý nội vi cũng chưa đạt hiệu quả; chưa thiết lập tốt các hệ thống giám sát số liệu tiêu thụ dẫn đến việc quản lý, kiểm soát và cải tiến gặp nhiều khó khăn.

“Cơ hội của RECP tại các doanh nghiệp là khá lớn, tiềm năng tiết kiệm điện, nước, nhiên liệu có thể lên đến hơn 10% và hơn thế nữa”- ông Thắng lạc quan.

Sau khi thực hiện chương trình đánh giá RECP, cán bộ của Ban Quản lý các KCN và các ban, ngành đã có năng lực để cung cấp các dịch vụ về RECP tại, địa phương, giúp thực hiện tốt “Chiến lược Sản xuất Sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020” và duy trì kết quả Dự án; Cán bộ kỹ thuật của các doanh nghiệp đã nắm vững phương pháp luận đánh giá RECP và tự duy trì RECP; các doanh nghiệp đã có danh mục các giải pháp RECP; các doanh nghiệp đã thực hiện các giải pháp RECP; thu được lợi nhuận từ việc thực hiện các giải pháp RECP; cải thiện được điều kiện làm việc cho công nhân; Giảm thiểu được phát thải có hại cho môi trường.

Tóm tắt kết quả đánh giá RECP tại các KCN được thí điểm chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái từ pha trước của Dự án, cụ thể là KCN Khánh Phú, Gián Khẩu (Ninh Bình); Hòa Khánh (Đà Nẵng), Trà Nóc 1+2 (Cần Thơ), Thắng cho biết, năm 2019, kết quả thực hiện dự án, Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam đã đào tạo lớp tập trung cho 220 người; đào tạo tại công ty cho 257 người; tiến hành đánh giá RECP tại doanh nghiệp tham gia dự án cho 73 công ty.

Một kết quả đáng khích lệ khác là Dự án đã nhận được sự tham gia tích cực và chủ động của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cải tiến quy trình quản lý và vận hành, đổi mới và ứng dụng công nghệ theo hướng sản xuất sạch hơn, giảm các nguồn gây ô nhiễm, tái sử dụng chất thải và phế liệu, sử dụng hiệu quả tài nguyên.

Kết quả thực hiện, lợi ích kinh tế hàng năm của cả 3 tỉnh có các KCN thí điểm nêu trên đạt 75,84 tỷ đồng.

Bên cạnh lợi ích về kinh tế, về lợi ích về môi trường, các doanh nghiệp tham gia áp dụng các biện pháp kỹ thuật sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn trong khuôn khổ thí điểm đã hỗ trợ doanh nghiệp tiết kiệm trên 22.000 Mwh điện mỗi năm, 600.000 m3 nước sạch, 140 TJ (Têrajun) nhiên liệu hóa thạch, gần 3.600 tấn hóa chất và chất thải, giảm được 32 Kt khí CO2 hàng năm.

Sau khi thực hiện chương trình đánh giá RECP, cán bộ của Ban Quản lý các KCN và các ban, ngành đã có năng lực để cung cấp các dịch vụ về RECP tại, địa phương, giúp thực hiện tốt “Chiến lược Sản xuất Sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020” và duy trì kết quả Dự án; Cán bộ kỹ thuật của các doanh nghiệp đã nắm vững phương pháp luận đánh giá RECP và tự duy trì RECP; các doanh nghiệp đã có danh mục các giải pháp RECP; các doanh nghiệp đã thực hiện các giải pháp RECP; thu được lợi nhuận từ việc thực hiện các giải pháp RECP; cải thiện được điều kiện làm việc cho công nhân; Giảm thiểu được phát thải có hại cho môi trường.

Cộng sinh công nghiệp – một phần không thể thiếu cho thành công của các KCN sinh thái

Về hợp phần cộng sinh công nghiệp nhằm ánh giá tiềm năng chuyển đổi từ KCN truyền thống sang KCN sinh thái. Các hoạt động bao gồm: Khảo sát, đánh giá, nghiên cứu khả thi các giải pháp công sinh công nghiệp; thực hiện các giải pháp cộng sinh ưu tiên; đào tạo kiến thức về cộng sinh công nghiệp.

Theo đó, kết quả quá trình thực hiện đạt được: Tại Ninh Bình, đã khảo sát 22 doanh nghiệp, phát hiện 14 cơ hội cộng sinh, lựa chọn nghiên cứu chuyên sâu 04 cơ hội; Tại Đà Nẵng, đã khảo sát 57 doanh nghiệp, phát hiện 22 cơ hội cộng sinh, lựa chọn nghiên cứu chuyên sâu 07 cơ hội; Tại Cần Thơ đã khảo sát được 58 doanh nghiệp; phát hiện 24 cơ hội cộng sinh; lựa chọn, nghiên cứu 08 cơ hội.

Những kết quả tích cực trên đã góp phần lan tỏa và thúc đẩy các doanh nghiệp KCN và các Công ty hạ tầng KCN mong muốn được tham gia vào Dự án KCN sinh thái để chuyển đổi phương thức sản xuất theo hướng kinh tế tuần hoàn, cùng hiệp đồng công nghiệp, tạo nên nhiều giá trị to lớn về lợi ích kinh tế, môi trường và xã hội.

Mô hình khu công nghiệp sinh thái sẽ góp phần quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế
Ông Ankit Kapasi - cuyên gia quốc tế về KCN sinh thái, Sofies

Ông Ankit Kapasi, Chuyên gia quốc tế về KCN sinh thái, Sofies cho rằng, cộng sinh công nghiệp là sự phối hợp giữa các ngành, các doanh nghiệp khác nhau nhằm sử dụng tài nguyên hiệu quả, cùng chia sẻ tài sản chung (điện, nước, hiệp đồng nguồn cung, khách hàng, sản phẩm phụ) với mục tiêu là tối đa hóa nguồn lực, đem lại lợi ích kinh tế lớn cho các bên, cộng đồng, đô thị.

Ngô Sơn

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.