Những quan điểm trái chiều về quản lý tiền công đức

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến lần 2 các bộ, ngành và các bên liên quan cho Dự thảo Thông tư hướng dẫn quản lý, thu chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội. Dự thảo này hướng dẫn thực hiện Nghị định 110/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức lễ hội.

Tiền công đức sẽ được quản lý bởi Cơ quan quản lý di tích

Dự thảo Thông tư nêu, về việc quyên góp, tiếp nhận các khoản công đức, tài trợ cho tổ chức lễ hội, di tích và hoạt động lễ hội, Điều 2 Dự thảo Thông tư quy định: Việc công đức, tài trợ cho tổ chức lễ hội, di tích và hoạt động lễ hội mang tính tự nguyện, không được ép buộc tổ chức, cá nhân đóng góp; không tiếp nhận tiền công đức, tài trợ kèm theo các điều kiện làm sai lệch bản chất, nội dung, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa, truyền thống của lễ hội, làm sai lệch kiến trúc di tích;

Những quan điểm trái chiều về quản lý tiền công đức
Theo Dự thảo Thông tư, không tiếp nhận tiền công đức, tài trợ kèm theo các điều kiện làm sai lệch bản chất, nội dung, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa, truyền thống của lễ hội, làm sai lệch kiến trúc di tích (Ảnh minh họa).

Tiền công đức không thuộc sở hữu cá nhân và không phản ánh vào ngân sách nhà nước, mà được để lại toàn bộ cho cơ quan, đơn vị tổ chức lễ hội, quản lý di tích sử dụng; việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền công đức tài trợ cho tổ chức lễ hội, di tích và hoạt động lễ hội phải có sổ sách thu chi nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, đúng mục đích.

Dự thảo Thông tư cũng quy định cơ quan, đơn vị tổ chức lễ hội, cơ sở quản lý di tích tiếp nhận công đức, tài trợ phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội, quản lý di tích và hoạt động lễ hội. Đáng chú ý, về vấn đề quản lý tiền công đức, tài trợ cho di tích, Điều 5 Dự thảo Thông tư quy định: Tùy theo lượng tiền tiếp nhận, định kỳ hàng ngày hoặc hàng tuần thực hiện kiểm kê, khi số tiền tiếp nhận được từ 100 triệu đồng trở lên, cơ sở quản lý di tích phải nộp vào tài khoản tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước;

Đối với việc công đức, tài trợ bằng tiền mặt, người làm công đức, tài trợ sẽ bỏ vào hòm công đức, đưa cho bộ phận tiếp nhận tại di tích; đối với công đức, tài trợ bằng giấy tờ có giá trị, người làm công đức, tài trợ chuyển cho cơ sở quản lý di tích…; hòm công đức phải được niêm phong và sử dụng tối thiểu hai loại khóa, chìa của mỗi khóa được giao cho cơ sở quản lý di tích và Trưởng ban quản lý di tích quản lý độc lập…

Đánh đồng “tiền công đức” và tiền “tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội”

Liên quan đến việc góp ý Dự thảo Thông tư, Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có văn bản gửi Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo các tỉnh, thành phố để cho ý kiến đóng góp về nội dung của Dự thảo Thông tư.

Những quan điểm trái chiều về quản lý tiền công đức
Việc cúng dường vào các thùng công đức tại các tự viện, chùa, cơ sở tự viện Phật giáo của bà con Nhân dân, tín đồ Phật tử là sự kính tin, cúng dường Tam Bảo. (Ảnh minh họa)

Theo đó, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh đã có văn bản góp ý về Dự thảo. Cụ thể, Hòa thượng Thích Thanh Quyết, Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh cho rằng Dự thảo này chỉ phù hợp áp dụng đối với việc quản lý các lễ hội và di tích bình thường, qua đó đảm bảo sự công khai, minh bạch chứ không phù hợp với lễ hội và di tích tôn giáo (như chùa của Phật giáo, nhà thờ của Công giáo…). Do đó, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh đề nghị Bộ Tài chính không đưa vào quản lý tiền công đức đối với các di tích là chùa, nhà thờ dù đã được kiểm đếm danh mục di tích.

Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh cũng cho rằng, các chùa thờ Phật là các cơ sở Phật giáo nếu có giá trị được nhà nước xếp hạng di tích thì các hoạt động Phật giáo tại các chùa đó vẫn diễn ra bình thường theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Việc xếp hạng di tích không đồng nghĩa với việc quốc hữu hóa di tích.

Bày tỏ quan điểm về Dự thảo Thông tư, chuyên gia pháp lý, thạc sĩ Nguyễn Thanh Hà cho biết, “tiền công đức” là khái niệm đến nay chưa có định nghĩa cụ thể tại bất kỳ văn bản pháp luật nào, nhưng trong thực tiễn và truyền thống văn hoá tại Việt Nam, thuật ngữ này được sử dụng riêng hoặc tạo sự liên tưởng ngay đến Phật giáo. Tiền công đức là tài sản mà tổ chức tôn giáo được phép tiếp nhận và được công nhận quyền sở hữu theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, phù hợp với quy tắc chung của Bộ luật dân sự về bảo hộ quyền sở hữu tài sản riêng của pháp nhân phi thương mại – tư cách pháp lý được Nhà nước thừa nhận đối với tổ chức tôn giáo.

Do vậy, quan điểm cho rằng thiếu quy định về quản lý đối với tiền công đức là không đúng mà về nguyên tắc, Nhà nước không được trực tiếp quyết định thay việc sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà phải tôn trọng quy định riêng của từng tổ chức tôn giáo về vấn đề này.

Còn nếu Chính phủ và các Bộ, ngành muốn quản lý tiền tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội của cơ sở tôn giáo thì Dự thảo Thông tư này phải quy định theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng chung cho tài sản của các tổ chức tôn giáo, thay vì đang sử dụng riêng thuật ngữ “tiền công đức” (là thuật ngữ dùng riêng cho Phật giáo). Cách tiếp cận này đang vô tình tạo ra sự đối xử bất bình đẳng trong quản lý Nhà nước giữa các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam. Đây chính là lí do vì sao thời gian qua, đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam và cộng đồng Phật tử tại Việt Nam lại rất quan tâm và không nhất trí đối với Dự thảo Thông tư này.

Theo Ths Nguyễn Thanh Hà, một trong các nguyên nhân dẫn đến quan điểm nhầm lẫn này của Bộ Tài chính là vì các di tích văn hoá - lịch sử tại Việt Nam thường gắn với các chùa, tự viện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đặc thù của lịch sử, truyền thống văn hoá. Nhưng xét cả ở góc độ pháp lý và thực tiễn thì “tiền công đức” và tiền “tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội” có bản chất pháp lý khác nhau và chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản pháp luật khác nhau, cần phải được phân biệt rõ như sau:

Tiền công đức là tài sản của tổ chức tôn giáo, thuộc quyền sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo nên được tổ chức tôn giáo tự mình quyết định việc quản lý, sử dụng, định đoạt theo khoản 5 Điều 21 và Điều 56 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Quyền đối với tài sản thuộc sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo được Nhà nước bảo hộ theo các quy định tại khoản 3 Điều 3, khoản 6 Điều 7 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và nguyên tắc về bảo hộ quyền tài sản tại Bộ luật Dân sự hiện hành.

Tiền tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội là các khoản quyên góp, tài trợ, đóng góp tự nguyện của cá nhân, tổ chức cho mục đích bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, lịch sử, thuộc sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động văn hoá, di tích theo quy định của Luật Di sản văn hoá năm 2001 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn.

Xuất phát từ việc xác định không đúng về đối tượng điều chỉnh, các quy định liên quan đến nguyên tắc góp, tiếp nhận tiền công đức và quản lý thu, chi tiền công đức trong Dự thảo Thông tư cũng không hợp lý.

Theo thạc sĩ Nguyễn Thanh Hà, không cần thiết và không nên ban hành quy định Nhà nước quản lý và quyết định việc sử dụng “tiền công đức”, mà Nhà nước chỉ nên tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát theo đúng thẩm quyền trong trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về sử dụng tiền công đức. Đặc biệt đối với các cơ sở tôn giáo đã tự chủ hoàn toàn, thậm chí tự chủ được cả nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động văn hoá tâm linh, lễ hội truyền thống mà không cần sử dụng ngân sách Nhà nước thì việc kiểm soát trực tiếp hoạt động thu, chi tiền công đức lại càng không cần thiết.

Việc kiểm soát, giám sát chi phí đầu tư, xây dựng, duy tu, bảo trì di tích đã có các quy định chi tiết của Luật Di sản, Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Khi phát hiện các dấu hiệu, hành vi vi phạm về quản lý chi phí đầu tư, xây dựng theo quy định, hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác về giao dịch tài chính, Nhà nước vẫn có thể can thiệp qua chức năng kiểm tra, giám sát của mình.

Công Phương

Bản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.