Tạo dựng chiến công thầm lặng
SN 1931, tại làng Hậu Lộc, Hà Tĩnh, năm 8 tuổi, cậu bé Tư Chu được gửi vào Nha Trang ở cùng một người chú làm nghề thợ may để tránh cái đói và ăn học. Năm 1941 ông chú qua đời sớm, cậu bé Tư Chu phải sống tự lập. Chỉ 4 năm sau, Tư Chu bắt đầu tham gia cách mạng. Cuối năm 1946, sau khi dự lớp quân chính, ông được cử về hoạt động nội thành. Lần đầu tiên, người chỉ huy giao cho ông hai quả lựu đạn tự tạo, không có chốt, ném mạnh tự nổ. Ông đến các nơi có lính Pháp để thăm dò, nhưng thấy chỗ nào bọn chúng cũng tay cầm tiểu liên lăm lăm sẵn sàng tiêu diệt kẻ đến gần. Cuối cùng ông chọn đồn cảnh sát ngụy ở Thị Nghè và “nhà làng” Thạnh Mỹ Tây. Ông chọn một tối thứ bảy để hành động. Sau khi ném liền hai quả vào mục tiêu, ông chạy thục mạng. Cảnh sát đuổi ngay sau. Vì chưa có kinh nghiệm, nên ông cứ đường thẳng mà chạy. Đến lúc bí quá, ông đành tạt vào một nhà ven đường. Lát sau, cảnh sát đến nói với ông chủ nhà là đi bắt Việt minh vừa ném lựu đạn.
Bên trong, bà chủ vội đưa ông vào nơi con gái bà đang ngủ, dặn trùm kín chăn. Khi cảnh sát vào, bà bình tĩnh trả lời, đây là nơi ngủ của con gái tôi, không ai vào đây cả. Bọn chúng ngó nghiêng một hồi rồi bỏ đi. Đến kháng chiến chống Mỹ thì lực lượng biệt động đã trưởng thành về số lượng, có nhiều cách đánh sáng tạo. Năm 1964, có hai chiến sĩ biệt động làm rung chuyển thế giới: Đó là người thợ điện Nguyễn Văn Trỗi và thợ máy Trần Văn Đang. Anh Nguyễn Văn Trỗi được phân công đặt mìn trên cầu Công Lý để diệt Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara.
![]() |
| Lính Mỹ - ngụy bị tiêu diệt sau trận đánh của Biệt động Sài Gòn Tết Mậu Thân 1968. ẢNH TƯ LIỆU |
Anh Trần Văn Đang đánh cư xá Mỹ, gần Bộ tổng tham mưu ngụy. Đến 1965, lực lượng biệt động tập trung của quân khu Sài Gòn - Gia Định thức được thành lập gọi là F100, gồm 13 đội. F100 được giao ba nhiệm vụ chính: Thường xuyên tổ chức các trận đánh có hiệu quả cao diệt lính và vũ khí địch; chuẩn bị phối hợp cùng một lúc tập kích vào các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy; huấn luyện cơ bản, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Có ba cách đánh tiêu biểu của biệt động Sài Gòn là nổ chậm, cường tập và pháo kích.
Năm 1965, quân Mỹ cùng nhiều vũ khí đổ bộ vào miền Nam. Cấp trên của ta có chủ trương cho biệt động đánh “dằn mặt” Mỹ. Mục tiêu là làm cho Mỹ - ngụy kinh hoàng bạt vía. Đại sứ quán Mỹ được chọn là mục tiêu tấn công của biệt động Sài Gòn. Sứ quán Mỹ là tòa nhà năm tầng ở ngã ba đường Hàm Nghi và Võ Di Nguy (nay là Hồ Tùng Mậu), có 195 nhân viên. Về phía ta gặp khó khăn vì không có nội ứng bên trong. Lựa chọn cách đánh nào là điều mà đội biệt động phải suy nghĩ rất kỹ. Đóng giả tướng tá, bộ trưởng ngụy, dùng xe chở thuốc nổ là cách đánh quen thuộc không còn thích hợp. Sau nhiều lần cân nhắc, được Bộ tư lệnh góp ý, cuối cùng đội chọn cách đánh cường tập. Lợi dụng tòa Đại sứ quán Mỹ tập trung nhiều dân cư, ta có thể trà trộn, sau đó nhanh chóng đánh trực diện, khiến chúng kinh hoàng không kịp đối phó.
Các chiến sĩ được chọn là Tư Việt (Lê Văn Việt), Bảy B (Nguyễn Thanh Xuân) và Thế, trinh sát bộ binh. Người trinh sát cho trận đánh là Năm Nông, Minh Nguyệt. 9g ngày 30-3-1965, Tư Việt đi xe máy đến ngã ba đường Võ Di Nguy và Nguyễn Công Trứ. Chiến sĩ Thế ở góc đường Tôn Thất Đạm. Bảy B đi ôtô tới mục tiêu từ đường Phú Kiệt. Khi nhìn thấy ôtô Bảy B lái, Tư Việt nhanh như cắt rút súng hạ gục hai tên cảnh sát vũ trang ngay trước mặt. Công an chìm ùa tới vây Tư Việt liền bị Thế bắn yểm trợ. Bảy B tăng ga phóng thẳng vào Đại sứ quán Mỹ, một tay tung cửa, một tay giật nụ xòe. Anh bắn chết ngay một tên lính gác Mỹ và tên cảnh sát gần đó rồi băng qua đường dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của Thế. Khối thuốc nổ 150 kg thiêu rụi 30 xe ô tô, làm 100 nhân viên Mỹ chết và bị thương. Cuối 1965, Quốc hội Mỹ phải bỏ ra 1 triệu USD để sửa chữa ngôi nhà này. Sau trận đánh này, địch ở khắp nơi đều khiếp sợ ra mặt. Niềm tin của nhân dân vào cách mạng và phong trào đấu tranh chống đế quốc Mỹ lên cao hơn bao giờ hết. Lực lượng biệt động trưởng thành và tự tin hơn, từ nay ta có thể đánh vào bất cứ mục tiêu nào. Điều đó đã được thể hiện trong Tết Mậu Thân, khi quân và dân đồng loạt đánh và chiếm giữ mục tiêu chiến lược quan trọng nhất...
![]() |
| Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu). |
Mãi vẫn là vị tướng anh hùng
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói: “Ấn tượng lớn nhất của tôi về anh Tư Chu là một người chỉ huy bản lĩnh, nhiệt tình và trong chừng mực nào đó có chất lãng mạn cách mạng”. Chất lãng mạn cách mạng ấy của ông Tư Chu đã thể hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc, như khi ông nghĩ ra cách tấn công vào cư xá Brink khi ngắm vệt nắng chiếu xiên vào hầm xe qua một tấm ảnh chụp. Và chất lãng mạn cách mạng ấy ứa ra thành những giọt nước mắt sau đêm Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Sống như thế, chiến đấu như thế, ân tình như thế nên hôm nay, sau mười mấy năm chiến đấu ngoan cường với căn bệnh nan y, ra đi thanh thản ở tuổi 86, mà ông Tư Chu vẫn để lại phía sau bao nhiêu thương tiếc. Hơn mười năm trời xây dựng, đào tạo, rèn luyện, tích lũy, toàn bộ lực lượng biệt động của ông Tư Chu được dốc hết vào trận đêm mồng một Tết, bằng ý chí anh dũng vô song của mình lập nên chiến công chấn động.
Từng giây phút các chiến sĩ, đồng đội chiến đấu ở đài phát thanh, tòa đại sứ quán Mỹ, bộ tư lệnh hải quân, bộ tổng tham mưu, dinh tổng thống là từng giây phút ông Tư Chu nghe ruột gan nóng như lửa đốt, tim óc nhói đau vì chưa thấy tin quân tiếp viện. Giữa trùng trùng mũi súng, vòng vây, ông vẫn lao đi thu thập tin tức đồng đội. Sau này ông viết trong hồi ký về đêm ấy: “Đơn vị do tôi chỉ huy đã mất đi hơn 80% sinh lực chỉ trong một ngày. Từng gương mặt thân yêu của anh chị em cứ hiển hiện khiến lòng tôi quặn thắt, lo lắng, day dứt và xót xa. Nước mắt tôi cứ tự nhiên chảy ra không thể kìm lại được. Những cảm giác này sẽ theo tôi suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời”.
Nước mắt ông còn phải chảy trong âm thầm sau đó nữa khi hai con trai của ông mới lên 5, lên 7 tuổi đang ở với bà ngoại bị đối phương bắt để chiêu hàng cha mẹ, bị đưa qua nhiều trại giam, mắc chứng thương hàn không người chăm sóc. Được thư ông Tư Ánh (Trần Bạch Đằng) khi đó là Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định hứa “sẽ làm hết khả năng để bảo đảm an toàn cho hai cháu”, ông lại nuốt nước mắt cùng vợ bước vào cuộc chiến đấu. Và không chỉ là nước mắt. Trước đó, sau trận đánh vào đại sứ quán Mỹ tháng 3-1965, chiến sĩ biệt động Tư Việt (Lê Văn Việt) bị bắt, bị xử án tử hình. Trong căn cứ ông Tư Chu không chợp mắt. Nửa đêm ông băng rừng tìm đến Bộ tư lệnh quân khu đề đạt nguyện vọng tìm cách cứu Tư Việt, rồi sau đó một kế hoạch trao đổi tù binh đã được hình thành. Khi hòa bình rồi, cứ Tết đến gia đình ông Tư Chu lại làm mâm cơm giỗ đội biệt động.
Nghỉ hưu, ông Tư Chu cặm cụi đi tìm lại tông tích đồng đội, những chàng trai, cô gái khi xưa hồn nhiên gia nhập lực lượng biệt động, hồn nhiên sống chết với nhau bằng những bí danh. Ông đối chiếu các tài liệu, các hồi ức để ghi chép lại, tái hiện những giây phút anh hùng bất tử của từng người. Ông gửi đi những bản đề nghị phong tặng, truy tặng danh hiệu anh hùng cho các tổ chiến đấu, cá nhân xuất sắc. Được coi là từ điển sống của biệt động Sài Gòn, ông nhớ tất cả, chỉ quên bản thân mình. Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đến với ông những ngày cuối trên giường bệnh, tháng 1-2012. Mọi người ai cũng thốt lên: “Muộn quá”; chỉ riêng ông mỉm cười gật đầu, ra dấu: “Ấm lòng rồi”.
Những đồng đội thân thiết với ông ai cũng hiểu cái làm ông ấm lòng và an lòng nhất là hai cuốn sách Biệt động Sài Gòn và Từ một dòng sông đã được hoàn thành, công lao và sự hi sinh của lực lượng biệt động đã được vinh danh. “Lẽ ra anh Tư Chu phải có thêm một Huân chương Lao động” - bà Thu An nhắc. Nói vậy là vì ông đã viết những trang bản thảo đầu tiên sau khi được bác sĩ chẩn đoán căn bệnh ung thư vòm họng di căn đã tới cuống họng: “Nay tôi đã ngoài 70 tuổi và căn bệnh hiểm nghèo thu hẹp sự hoạt động, nhắc tôi về quỹ thời gian còn lại không bao nhiêu nữa. Vậy thì có lẽ hay nhất là tôi nên tận dụng số thời gian này - tuy ít ỏi - sao cho có ích”.
Hai cuốn sách được ông xây dựng đề cương, bố cục cẩn thận, sao lục tài liệu, rồi viết, ghi chú cẩn thận từng trang, miệt mài cho đến tận lúc nét chữ chân phương thanh mảnh bị những cơn đau khiến cho méo mó, nghuệch ngoạc. Đọc những dòng gan ruột trong sách, nhìn những tập bản thảo và cả kịch bản phim được ông viết trên nhiều loại giấy, bằng nhiều dạng nét chữ tùy theo hoàn cảnh, tùy theo sức khỏe mà khó cầm lòng. Các nhà lãnh đạo lão thành như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông Võ Trần Chí, Trần Bạch Đằng khi đọc sách đều ghi nhận đây là tài liệu rất giá trị, rất quý giá cho lịch sử...
Thủy Liên
Đường dẫn bài viết: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/nho-ve-vi-tuong-tung-la-tu-dien-song-cua-biet-dong-sai-gon-110932.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.