Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền cơ bản của con người. Đó là quyền được xác lập tư cách con người trước pháp luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau.
Theo đó, mọi công dân, nam, nữ thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 7 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã quy định: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy”.
Ðiều 8 bản Tuyên ngôn cũng quy định: “Mọi người đều có quyền được bảo vệ và bênh vực bởi các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do Hiến pháp và Luật Pháp quy định”.
Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966 một lần nữa tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng của mọi người và đã cụ thể hóa những quy định ấy trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế, được nhiều quốc gia trên thế giới tham gia ký kết và công nhận.
Trong đó, Điều 26 đã nhấn mạnh quyền bình đẳng của mọi người dân trên thế giới trước pháp luật: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào”.
Công ước 1966 cũng quy định, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác.
Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, thành phần xã hội, địa vị xã hội… Trong cùng một điều kiện như nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau. Quyền bình đẳng trước pháp luật cũng là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ bản ở nhiều nước, bởi một trong những nguyên tắc quan trọng trong điều chỉnh pháp luật là bình đẳng.
Tại Việt Nam, Điều 16 trong Hiến pháp 2013 quy định việc mọi công dân đang sống, làm việc và học tập trên lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt tuổi tác, giới tính, thành phần dân tộc hay trình độ đều bình đẳng trước pháp luật. Theo đó, “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Đặc biệt, pháp luật Việt Nam đã quy định, mọi công dân đều bình đẳng về hưởng quyền và làm nghĩa vụ trước đất nước, xã hội và được hưởng tất cả các quyền con người như nhau ở mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm và bị xử lý theo quy định pháp luật và luật pháp phải được thượng tôn bất kể là giữa ai, bao gồm cả vị thế giữa người vi phạm và bị xâm phạm.
Ngoài ra, Hiến pháp 2013 còn quy định quyền bình đẳng của người dân trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội, khi mọi công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp đều được hưởng những quyền như nhau và được thực hiện những nghĩa vụ như nhau trước nhà nước, trong đó có xác định quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình.
Kỳ Phong / PL&XH
Đường dẫn bài viết: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/tat-ca-moi-nguoi-deu-binh-dang-truoc-phap-luat-101851.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Pháp Luật và Xã hội - Chuyên trang của Báo Kinh tế & Đô thị", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.